Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

7. BƯỚC TU THIÊN ĐẠO ĐÂU PHẢI AI TU CŨNG ĐƯỢC / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Canh Tý (1960)

 

7. C TU THIÊN ĐO

ĐÂU PHI AI TU CŨNG ĐƯC

Tu xá Phước Huệ Đàn (Tam Kỳ, Quảng Nam)

ngày 13-3 Canh Tý (Thứ Sáu 08-4-1960)

THI

NGÔ lệnh ([1]) ban ra gắng nhớ lời

CAO ĐÀI mở Đạo khắp nơi nơi

ĐẠI đồng thiết lập toan lo trước

TIÊN Phật muốn thành phải biết thôi.

Chào chư liệt đẳng Thiên ân, chư Thánh môn tu sĩ.([2])

Bần Đạo lấy làm băn khoăn trong những phút cuối cùng ca cơ khảo thí.([3]) Rồi đây chẳng biết ai mất ai còn. Phải chi người đã chịu ơn cứu chuộc ([4]) lần này mà cũng một đức tin thì bước tu đâu phải khó khăn, ma đời ([5]) [đâu] còn quẩn quanh ngăn tr.

Đây là nơi phước huệ dành riêng cho hàng Thánh môn đệ t ([6]) gội tắm điển lành, hầu sạch bợn trần ai; tẩy rửa oan khiên,([7]) nghiệp chướng;([8]) để lòng thanh tịnh, an vui trước những cảnh hỗn độn, điêu tàn; có đủ phương tiện cộng sự trong chương trình tái tạo thế gian, mở đường tận độ.

Chư hiền đồ vì nặng nghiệp, không kiềm chế ni lòng thị dục,([9]) để cho ma quỷ thừa thế tung hoành, làm cho quyền đạo yếu mòn, pháp tu đen tối, sống trong chuỗi ngày buồn khổ lo toan. Thật là một phút dể duôi,([10]) trọn đời ân hận.

Giờ này, Bần Đạo đến nhắc lại cho toàn chư tu sĩ nhớ lấy lời giao ước ([11]) giữa mình và Thiêng Liêng mà trở về cùng đạo pháp. Được vậy thì sự cứu chuộc Bần Đạo sẵn sàng đưa tay dìu dắt đến nơi tùy theo s nguyện.([12])

Chư tu sĩ đã phạm hồng ân, bội tín ([13]) cùng mình, thì làm sao đi đến nơi về đến chốn. Một việc làm quá sức mình nếu không cố gắng rất nhiều và nhờ Thiêng Liêng thì sao dễ dàng đạt thành Phật quả.

Bước tu Thiên Đạo đâu phải ai tu cũng được.([14]) Trong muôn có một, người ấy mới đủ sức làm được những việc anh hùng, vất c lợi danh ham muốn, xô ngã bao nhiêu trở ngại khó khăn, đặt nguyện lực ([15]) lên trên, một lòng mạnh tiến.

Nên chư tu sĩ đây làm sao có cái gan, cái chí anh hùng kia để thắng tất cả mọi tr gay,([16]) để theo cùng Bần Đạo. Theo Bần Đạo có khó gì. Đường đi rất êm đềm mát mẻ. Đường ấy ở lòng thanh tịnh. Sở dĩ chư tu sĩ gặp bước khó khăn là tại lướng vướng ái ân, quẩn quanh trong danh lợi.

Tóm lại, việc tu là phải nhất thành,([17]) xả thân cầu đạo ([18]) thì mọi sự dễ dàng. Được vậy, Bần Đạo mới nhận làm đệ tử.

Phước Huệ Đàn thành lập là cửa thiên đạo ([19]) m ra. Lẽ tất nhiên trong bước đầu có nhiều tr ngại. Trở ngại ấy bởi một sự thử lòng. Mà Thầy cũng cho phép ma quỷ đặt các thây ma trên đầu con đường vào nơi Thánh vức.([20])

Ai là người đã hứa, có đủ can đảm bảo vệ sự giao ước cho đến cùng?

Rồi đây công việc của ma quỷ còn làm nhiều điều ghê sợ hơn và [khiến người] dễ ngã lòng trước bao thuận cảnh.([21])

Phước Huệ Đàn ntu thiết lập. Bần Đạo đã hứa. Mọi việc nói ra cùng chư hiền đồ sẽ làm trọn nay mai. Hứa cứu phần hồn và tạo cho mọi người có chí tu tm giải thoát được ngồi trên thiên vị ([22]) xứng đáng.

Có một điều gần đây, nó sẽ đập vào lòng các hiền một tin buồn dữ dội. Nhưng các hiền đồ cứ tin mọi sự ấy Thầy cho. Mất đi một tình thiêng liêng là đem lại bao điều thánh khiết. Tình ấy kết nên vô lượng pháp môn.([23]) Thy và Bần Đạo tận tâm xây nên hạnh phúc cho nó.

Một Hội Thánh Trung Hưng đã đứng dậy. Các hiền đồ còn nhớ sứ mạng vừa trao ban thì nhị vị đại Thiên ân trong Hội Thánh là bạn yêu của toàn đạo phải lìa thế,([24]) đổi một giá [chuộc] rất nên xứng đáng.

Đây là việc sắp đặt trở lại, theo lời đã cầu xin. Bần Đạo y cho.

Một là chư tu sĩ đứng trên địa hạt giải thoát để giải quyết vấn đề tương quan với giáo quyền và xã hội.

Tương quan đây là trong lúc cần để gây kết thêm các duyên lành, báo bổ ơn giáo hóa dựng xây của Hội Thánh để công được đầy, qu được trọn. Thìn lòng ([25]) trước mọi cám dỗ để tỏ ra một tu sĩ đã chiến thắng ngang tàng, không hề động tâm lưu luyến.

Tương quan giữa gia đình em chị trong nhà tu để bảo trợ về đời sống hay tinh thần, xây dựng nhau để trở nên ai cũng có đủ phương tiện tạo Tiên tác Phật. Nhất là phải tôn quyền trọng pháp,([26]) luôn luôn tụng đọc lời hồng thệ, nhắc nhở mãi ở lòng mình, rèn đúc một đức tin làm khí giới đánh bại cả những quyền pháp nào xúi bảo ta quên phần công phu tu học.

Trong các mối tương quan, điều đáng lo là sống bằng hư danh và bạn bè với khôn ngoan lý trí.([27]) Người tu, danh đã ưa, lợi đã muốn, thì cửa Bạch Ngọc khó vào.

(. . .)

Vậy ra hành đạo bằng lối nào cũng giữ vui với sứ mạng, làm tròn nhiệm vụ, đừng dể duôi mà mất nết, Thần Thánh khó gần.

Ngày 8 tháng 4 tới đây, lời hứa cho các tu sĩ ra trường, tùy sự phân công của Hội Thánh. Ở đâu, ai làm gì, việc ấy tùy đó.

Có một điều, ai đi ra, ai ở nhà đều gìn giữ lấy con người giải thoát. Luôn luôn bn thời công phu. Đi đứng ngồi nằm([28]) đều theo pháp đạo.

Nếu bởi chế độ nhà tu, không chịu được nổi khổ hạnh, xin về ở nhà riêng, thì nhà riêng sống với cha mẹ, anh em cũng giữ y quyền pháp đã định.

Tóm lại, tu theo pháp đạo của Bần Đạo, không luận có đoàn thể hay chưa vào đoàn thể, làm sao tu được là được. Mọi việc phải qua một sự tuyển trạch bằng vô hình và bằng hữu hình dưới lịnh được cảo chọn.([29])

Đây, theo lời Giáo Tông Lý Đại Tiên, cần xây dựng một Hội Thánh nphái có quyền pháp để dìu dắt nữ phái ngày mai, để nữ phái thành hình một đời sống lành mạnh, bình đẳng trong pháp môn tận độ. Mà muốn có một Hội Thánh lành mạnh thì nhất là phải có con người tu, người tu trong pháp môn giải thoát. Chọn con người ấy để làm những việc quyền pháp sứ mạng.

Người ấy là người của Giáo Hội, không dính líu gì với gia đình chồng con, tính toan danh lợi. Người tu sĩ đã có lòng thanh tịnh, nguội lòng ái ân nhục dục, để mọi việc bi bàn tay thanh khiết xây nên thì việc ấy mới tr thành vô lậu ([30]) chân tướng, và người mới có đủ tư cách lãnh một chức trách Thiên ân làm đầu trong phái nữ. Vậy muốn có Hội Thánh nphái, trước là phải có nhà tu để tuyển thâu người đi trên con đường thiên đạo.

Vào nhà tu để tập khổ hạnh, để khép mình theo khuôn phép nhà đạo, để chờ một sự tiến cử vào Phước Huệ Đàn thọ pháp, ra trường học phần giáo lý. Xem xét trong một năm đủ tư cách đạo hạnh, cho về các tu xá tỉnh đạo hướng dẫn chị em. Số ấy đã cao hơn trình độ số người trong tu xá.

Một số khác, hơn về đạo hạnh cũng như năng khiếu, cần ở lại học tu một năm thứ hai để năm thứ ba ra hành đạo. Năm thứ nhất lại vào. Cứ luân chuyển như thế. Thời gian chín năm là đủ số người cung phụng cho Giáo Hội.

Nhưng chương trình trên đây bị m,([31]) cơ khảo thí còn dày, chư tu sĩ liệu làm sao tùy ý.

Bần Đạo dặn một điều: Bất cứ người tu sĩ làm gì, đâu, sống như thế nào, cũng đặt vấn đề công phu tu học lên trước, chớ đừng đặt cái gì trước nữa. Đặt công phu lên trước để đảm bảo cho lời nói, cho việc làm, cho con người không bị rẻ rúng.

Nếu toàn bộ Hội Thánh cũng như dòng tu Bảo Thọ này đồng ý theo lời Bần Đạo thì quyền pháp sẽ trả lại cho, mọi việc trở nên bình yên, đường thông công được nối. Bằng không, nguyện lực cá nhân tu sĩ nào giữ đúng hồng thệ thì đi thẳng, có người Bần Đạo cho đến dìu dắt.

Còn tu sĩ nào muốn tạm ngừng [một] thời gian, [sau] năm mười năm sẽ sám hối cầu đạo. Bần Đạo cho phép rút lời thề. Mà cấm từ đây trở đến ngày sám hối cầu đạo không phạm mười lời răn ([32]) và năm giới, ba quy đã ấn định.

Vị nào muốn trở về với thế đạo, nhờ Hội Thánh và toàn thể nhân sinh cầu xin chư Thần Thánh tha tội. Tịnh đường làm lễ xả giới và trước buộc giữ kín bí quyết. Nếu lậu Thiên cơ phải chịu Thiên khiển lôi tru,([33]) vĩnh kiếp A T.([34]) Đừng trách sao không dặn trước.

VPhước Huệ Đàn, tu sĩ đã phạm lời răn, trái hồng thệ, phạm giới tu thì nên ăn năn sám hối để toàn bộ khỏi bị khảo lây. Tu sĩ nào trái quyền pháp, nên giũ danh,([35]) đừng để mang tiếng trong dòng tu.

Vậy báo tin cho các hiền đồ hay công việc Phước Huệ Đàn. Nếu dòng tu Bảo Thọ được đứng vững trên địa hạt giải thoát thì Phước Huệ Đàn vẫn giữ nguyên, chờ một ngày quyền pháp trọn vẹn sẽ mở đường tận độ. (. . .)

Hôm nay, Bần Đạo chỉ đến ban ơn, nhắc lại việc tu hành. Chư hiền đồ nhớ đừng trái hồng thệ là điều Bần Đạo vui mừng nguyện độ.

Có một điều, chư hiền đồ đặt đức tin thì mọi việc bình yên. Có đức tin thì quyền pháp linh nghiệm. Mọi việc gần đây bị thay đổi, nhưng dầu người hay Trời phải thay đổi mà lòng tu của tu sĩ vẫn được thanh tịnh. Ở cảnh ngộ nào, lòng tu sĩ vẫn vô ngại. Tu là trước vạn sự đều đặt [đức tin] vào đó làm trụ cột thì được vững chắc.

(. . .)

Mọi việc của Hội Thánh phải có một phần thay đổi. Dù sao,([36]) các hiền tin ở Bần Đạo. Dù sao, cũng yên tâm. Chi chi cũng có Thầy trong đó. Phải vui nghe thánh ý trong lúc khảo thí này. Nói chung, có tu là sung sướng hơn cả. Mà tu được trong hồi khảo thí lại đón nhiều huyền cơ.([37])

Vậy các hiền tu sẽ thành công trong sứ mạng và tiếp [tục] sứ mạng ngày mai. Nếu ngày này các hiền không tu được thì ngày mai các hiền cũng không ra gì và mọi việc có ra gì.

(. . .) Nếu chân tu và đạo đức thì cùng với chân tu và đạo đức làm bạn thân yêu vậy. Bạn ấy là Thần Thánh. Mong các hiền làm Thần Thánh. Mà làm Thần Thánh, đừng chấp kẻ phàm phu. Đã chấp kẻ phàm phu, làm sao làm được Thần Thánh. Nên người Thần Thánh chỉ chấp điều của Thần Thánh mà thôi.

Vậy đồng ý cho Bùi Thị Ngàn về, gọi là Thanh Phong Thn Nữ.

Bần Đạo ban ơn và xin hứa dìu dắt. Bần Đạo thăng.



([1]) Ngô lệnh 吾令 (My command): Lịnh của Ta.

([2]) Thánh môn tu sĩ 聖門修士: (self-cultivators inside the Holy gate): Người tu học nơi cửa Thánh.

([3]) khảo thí 考試 (examining, testing): Cho thi (thử thách) để xét khả năng, trình độ.

([4]) cứu chuộc (cứu thục : redeeming, redemption): Cứu là cứu nguy, cứu thoát (rescuing, saving). Chuộc (từ thuần Việt, chữ Nho là thục ) nghĩa là đem một món gì ra đánh đổi một hình phạt (lấy công chuộc tội; chữ Nho là tương công thục tội 將功 贖罪: redeeming one’s crime[s] by meritorious acts). Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, cơ cứu chuộc mở ra khi Đức Giê-su hy sinh trên thập giá, lấy mạng sống của Người làm giá chuộc (thục giá 贖價: ransom) cho tội lỗi chúng sinh (xem Mát-thêu 20:28 và Mác-cô 10:45). Trong Tam Kỳ Phổ Độ, cơ cứu chuộc mở ra khi Đức Chí Tôn (Thầy) rời Bạch Ngọc Kinh xuống trần mở đạo Cao Đài với đại nguyện trước Công Đồng Tam Giáo rằng lập Đạo không thành thì Thầy không trở về ngôi vị cũ. Cứu chuộcgiá chuộc là thuật ngữ đạo Chúa. (Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2018, tr. 20-29, 37-41.)

([5]) ma đời (thế ma 世魔: earthly hindrances to self-cultivators): Những chướng ngại trên đời cản trở người tu.

([6]) Thánh môn đệ tử 聖門弟子 (disciples inside the Holy gate): Học trò nơi cửa Thánh.

([7]) oan khiên 冤牽 (predestined hostility or debts): Tiền khiên 前牽, những nợ nần, thù oán từ kiếp trước.

([8]) nghiệp chướng 業障 (karmic obstacle): Chướng ngại, trở ngại phải nhận lãnh do trước kia tạo ra nghiệp xấu. Điển tích: Cūlapanthaka (Chu Lợi Bàn Đà Ca 周利盤陀迦 hay Chu Lợi Bàn Tha Kiết 朱臘般他嘎) là một đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Trước khi đắc quả A La Hán, ông đần độn đến nỗi học bốn tháng vẫn không thuộc một bài kệ ngắn. Chướng ngại này khiến ông tu hành kém cỏi. Nguyên do, trong tiền kiếp ông rất thông minh, nhưng đã tạo nghiệp xấu khi chế nhạo một thầy tu kém trí nhớ.

([9]) thị dục 嗜慾 (inferior desire): Ham muốn thấp hèn.

([10]) dể duôi (disregarding sth): Xem thường, coi nhẹ.

([11]) giao ước 交約 (testament, covenant, contract, agreement): Những quy định (cam kết) về quyền lợi và trách nhiệm giữa hai bên để hai bên căn cứ theo đó thực hiện. Giao ước cũng là minh ước 盟約 (an oath between two parties), lời thề giữa hai bên. Đối chiếu: 1/ Kinh Thánh gồm hai phần là Cựu Ước 舊約 (the Old Testament) và Tân Ước 新約 (the New Testament). a/ Cựu Ước là giao ước thời Nhất K Phổ Độ, khi Đức Thượng Đế chọn một người dân du mục chín mươi chín tuổi, đặt tên ông là Áp-ra-ham (Abraham), cho ông làm cha của nhiều dân tộc (the father of many nations), và dạy ông: Ta sẽ lập giao ước của Ta giữa Ta với ngươi và với dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây sẽ là giao ước vĩnh cửu, do đó Ta sẽ là Thiên Chúa của ngươi và của dòng dõi ngươi sau này. (. . .) Phần ngươi, hãy giữ giao ước của Ta, ngươi và dòng dõi ngươi sau này, từ thế hệ này qua thế hệ khác. (Sáng Thế 17:7,9) – I will establish my covenant as an everlasting covenant between Me and you and your descendants after you for the generations to come, to be your God and the God of your descendants after you. (. . .) As for you, you must keep my covenant, you and your descendants after you for the generations to come. Đến thời Mô-sê (Moses) làm trung gian giữa Trời và người, ông lập lại giao ước này khi lấy máu con vật hiến tế rảy lên dân chúng và nói: Đây là máu giao ước Đức Chúa đã lập với anh em . . . (Xuất Hành 24:8) – This is the blood of the covenant that the Lord has made with you . . . b/ Tân Ước là giao ước thời Nhị K Phổ Độ, giữa Đức Thượng Đế và con người qua trung gian Chúa Giê-su Ki-tô. Giao ước được lập khi Chúa cầm chén trong buổi Tiệc Ly và bảo các tông đồ: Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu giao ước, đổ ra cho muôn người được tha tội. (Mát-thêu 26:27-28) – Drink from it, all of you. This is my blood of the covenant, which is poured out for many for the forgiveness of sins. 2/ Sang Tam K Phổ Độ, Đức Thượng Đế lập giao ước cứu độ con người khi đại nguyện trước Công Đồng Tam Giáo rằng nếu cứu độ Lần Ba không thành, Thầy nguyện không trở về ngôi vị cũ. (Đại Thừa Chơn Giáo, 1936, bài Chỉ Ý Thuyết Minh)

([12]) sở nguyện 所願 (one’s wish, one’s expectation): Mong ước của mình.

([13]) bội tín 背信 (breaking a promise): Không giữ lời hứa.

([14]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([15]) nguyện lực 願力 (vow power): Sức mạnh của lời thề nguyền. Người tu nhờ lập nguyện, phát nguyện mà thành đạo. Người xưa nói: Vô nguyện bất thành Phật dữ Tiên; Phật Tiên vô nguyện bất điều hiền. 無愿不成佛與仙; 佛仙無愿不調賢. (Người không lập nguyện chẳng thành Phật Tiên; Phật Tiên chẳng độ người không lập nguyện.) Sinh thời, tiền khai Ngô Minh Chiêu có dịch bốn lời đại nguyện của các bậc cổ đức thành lục bát như sau: Một là sanh chúng hằng hà / Dốc lòng cứu vớt, lòng ta thề nguyền / Hai là phiền não nối chuyền / Thề nguyền đoạn tuyệt như thuyền ra khơi / Ba là chí học chiều mơi / Phép mầu sâu nhiệm, thảnh thơi có ngày / Bốn là Phật Đạo công dày / Nguyện thành chánh quả kíp tày chí ta. (Chúng sanh vô biên, thệ nguyện độ/ Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn/ Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học/ Phật Đạo vô thượng, thệ nguyện thành. 眾生無邊誓願度 / 煩惱無盡誓願斷 / 法門無量誓願學 / 佛道無上誓願成.)

([16]) trở gay (severe obstacle): Trở ngại gay go, khó vượt qua.

([17]) nhất thành 一誠 (absolutely sincere): Một lòng thành thật.

([18]) xả thân cầu đạo 捨身求道 (abandoning one’s body in searching for the dao, i.e., dharma): Bỏ mình cầu đạo; quên cả bản thân để cầu học pháp môn.

([19]) thiên đạo 天道 (the heavenly way): Con đường nội tu tịnh luyện (the way of inner self-cultivation) để giải thoát, cũng gọi thiên đạo đại thừa, thiên đạo giải thoát.

([20]) Câu này ý nói: Để được thành đạo, người tu phải chấp nhận những khảo thí rất dữ dằn, có thể mất mạng sống mà không sợ. – Thánh vức, Thánh vực 聖域 (the Holy realm): Cõi Thánh.

([21]) Thuận cảnh rất dễ khiến người tu thất bại nên gọi là khảo thuận. Thí dụ, công danh thăng tiến mau lẹ, tài lộc dồi dào dễ dàng, v.v… Chúng làm người tu mất cảnh giác, sập bẫy và say đắm mùi đời bả tục. Dân gian nói: “Khảo thuận mới dễ dở dang anh hùng.”

([22]) thiên vị 天位 (heavenly position): Chỗ (vị trí) trên cõi trời.

([23]) vô lượng pháp môn 無量法門 (infinite dharma methods): Vô số pháp môn, cùng nghĩa bát vạn tứ thiên pháp môn 八萬四千 法門 (tám vạn bốn ngàn pháp môn).

([24]) Hai vị đại Thiên ân này là: a/ Thượng Giáo Sư Trần Nguyên Chí sinh năm 1914, quy thiên đêm Giáng Sinh (Thứ Ba 24-12-1957, tức 04-11 Đinh Dậu). Ngài đắc quả Trung Đẳng Huyền Cơ Chưởng Pháp Hộ Đạo Thiên Quân 中等玄機掌法護道天君, hay Bảo Nguơn Khai Huyền Cơ Tuyển Tiên 保元開玄機選仙, cũng là Bảo Nguơn Chơn Tiên 保元真仙. b/ Thái Giáo Sư Nguyễn Đán (Nguyễn Như Sơ) sinh năm 1905, quy thiên ngày Thứ Tư 26-02-1958 (09-01 Mậu Tuất). Ngài đắc quả Nhất Phẩm Nhị Thừa Hoan Hỷ Chơn Quân 一品二乘歡喜真君.

([25]) thìn lòng (controlling one’s temper): Giữ gìn tánh tình cho đằm thắm, nết na.

([26]) tôn quyền trọng pháp (respecting the dharma power): Tôn trọng quyền pháp (tôn trọng pháp quyền 尊重法權).

([27]) bạn bè với khôn ngoan lý trí: Nghĩa là tin tưởng vào óc khôn ngoan theo lý trí thế gian. Trong Thư 1 Cô-rin-tô (3:18-19), Thánh tông đồ Phao-lô cảnh báo: Nếu trong anh em có ai tự cho mình là khôn ngoan theo thói đời, thì hãy trở nên như điên rồ, để được khôn ngoan thật. Vì sự khôn ngoan đời này là sự điên rồ trước mặt Thiên Chúa. – If any of you think you are wise by the standards of this age, you should become fools so that you may become wise. For the wisdom of this world is foolishness in God’s sight.

([28]) đi đứng ngồi nằm (hành trụ tọa ngọa 行住坐臥: walking, standing, sitting, lying): Là bốn oai nghi 四威儀 (four respect-inspiring forms of demeanour) của người tu sĩ.

([29]) cảo chọn (examining to select): Khảo tuyển 考選, xem xét để chọn lựa.

([30]) vô lậu 無漏 (immortal, exempt from death): Lậu là rò rỉ (lậu tiết 漏泄: leaking), ám chỉ phiền não 煩惱 (distress). Vì phiền não mà quẩn quanh trong vòng luân hồi sống chết, đó là hữu lậu 有漏 (mortal, subject to death). Không phiền não và thoát khỏi vòng luân hồi sống chết, đó là vô lậu. Vô lậu còn có nghĩa là thuần khiết (pure), không ham muốn (passionless).

([31]) bị mẻ (defective, imperfect): Bị sứt mẻ, chưa hỏng hết nhưng không hoàn hảo.

([32]) mười lời răn (thập thanh điều 十清條: ten purity clauses): Đức Ngô Minh Chiêu dạy môn sanh tu theo pháp môn Ngài truyền phải giữ mười điều như sau: Một khuyên giảm khẩu bớ con / Hai khuyên chánh kỷ cho tròn hóa nhơn / Ba khuyên giảm tánh giận hờn / Bốn khuyên giữ lễ chớ lờn oai Tiên / Năm khuyên kính mến người hiền / Bảy khuyên học chữ từ bi / Tám khuyên hành đạo kịp kỳ Long Hoa / Chín khuyên suy xét gần xa / Mười khuyên lập nết ôn hòa độ dân.

([33]) Thiên khiển lôi tru 天遣雷誅 (Heaven orders death by thunder strike): Trời khiến sét đánh chết.

([34]) A Tỳ 阿毘 (avīcī): Cũng gọi Vô Gián Địa Ngục 無間地獄 (the Hell of Unintermitted Punishment), là nơi tội nhân bị trừng phạt không hề gián đoạn và không có ngày được thoát khỏi tù.

([35]) giũ danh (deleting a name): Bỏ tên ra khỏi danh sách, tức không còn là người của dòng tu.

([36]) dù sao (if any happens) : Dầu có (nếu có) việc gì chăng nữa.

([37]) huyền cơ 玄機 (mysterious principles): Cơ mầu, những nguyên lý mầu nhiệm. Đồng nghĩa với Thiên ý 天意, Thiên cơ 天機.


HUỆ KHẢI chú thích - LÊ ANH MINH hiệu đính