16. MƯỜI ĐIỀU GHI NHỚ
Trung Hưng Bửu
Tòa (Đà Nẵng)
ngày 15-7 Canh Tý (Thứ Hai 05-9-1960)
THI
BẢO người
sứ mạng sợ mà lo
THỌ lãnh Thiên ân xứng phận
trò
THÁNH lịnh trước sau lòng
chẳng đổi
NƯƠNG nhờ quyền pháp mới
xong cho.
Chào quý hiền Thiên
ân.
Cho hay đạo
pháp rất mầu vi
Nếu thiếu lòng tin dễ thấy
gì
Một quyết từ đây về với Mẹ
Sống trong thanh tịnh thấy
Tam Kỳ.
BÀI
Tam Kỳ Thầy
đến độ ta
Truyền trao bí pháp ([1]) cứu ra bể trần
Nghiệp duyên ràng buộc lấy
thân
Bao phen chìm nổi, bao lần
tỉnh say.
Chừng nào hết
đắng cay, giải thoát
Để lòng Thầy khỏi nát khỏi
phiền
Không tu muôn thuở đảo
huyền ([2])
Không tròn sứ mạng, triền
miên tội tình.
Thầy
thương xuống công bình tận độ
Bởi lòng ta nghiệp đố ([3]) chống kình
Làm cho quyền pháp mất linh
Hóa nên hàng ngũ nhơn sinh rã rời.
Làm đoạn cắt giữa người và Thánh
Hóa cho nên nóng lạnh tình đời
Làm cho cơ cấu đổi dời
Cơ tâm ([4]) xảo quyệt, cơ Trời đâu
dung.([5])
Khuyên ai nấy mau cùng hối cải
Dừng bước đời, trở lại về Cha
Muốn cho lớn nhỏ thuận hòa
Phải lòng như thiết như tha ([6]) khẩn cầu.
Cầu cho được minh châu ([7]) hiển hiện
Cầu
cho nhau cải tiến tu hành
Cầu
sao sống dưới phước lành
Giáo
quyền đứng vững, môn sanh vững vàng.
Hồn được tịnh mới an thể phách
Phách được an, phẩm cách
hoàn toàn
Trông về ơn điển Thầy ban
Ơn Thầy ngự trị, có đàng
hanh thông.
Có giác
tỉnh, còn trông ngày cứu
Ăn năn rồi thành tựu Bửu
Chương ([8])
Tôn Sư dẫn bước chỉ đường
Đón cơ hội ngộ, lập trường
là tu.
Tu chắc thật, thật tu, tu thật
Thật
lòng tu, phải quyết phải cầu
Phải
ra khó nhọc đương đầu
Chớ
còn dụ dự thì đâu được thành.
MỘT, nghe
ta thanh thanh tịnh tịnh
Hướng về Thầy nhứt lịnh
tưởng tin
Sống còn quyền pháp tựa vin
Phần ngoài tu gọn, vẹn gìn
phần trong.
HAI, nghe
ta hết lòng hoài bão ([9])
Thủy chung cùng với Đạo mất
còn
Hết tình thuận đạo làm con
Thần ([10]) nghe phán định cho tròn từ đây.
BA, nghe
ta Đông Tây lập chí
Bắc
cầu sang Âu Mỹ mở mang
Phái
chi chung vạch một đàng
Đem
nhau về chỗ huy hoàng thuần chơn.
BỐN, nghe ta chớ hờn chớ trách
Ở
thời Khuê qua Cách còn xa ([11])
Cách
sao danh nghĩa Bửu Tòa
Trung
Hưng sứ mạng nơi ta vẫn còn.
NĂM, nghe ta chớ mòn chớ mỏi
Đứng
trước cơ hủy hoại vẫy vùng
Mất
còn lấy phước mà đong
Phước còn do ở bên trong
con Thầy.
SÁU, nghe
ta từ nầy xây dựng
Các nhà tu chưa cứng phải
xiêu
Chị em phạm lấy Thiên điều
Sống trong vất vả mai chiều
mà thương.
BẢY, nghe
ta mở đường tận độ
Độ mình rồi có chỗ người
theo
Độ mình hết ngặt hết nghèo
Ngặt nghèo đã hết, ai xeo
nổi mình.
TÁM, nghe ta nội tình là vậy
Vậy
mà ai có thấy hay không
Nội
tình, nội bộ bất thông
Chỉ
tu thanh tịnh thì lòng gặp nhau.
CHÍN, nghe ta mau mau kiểm điểm
Lời
thánh ngôn tiệm tiệm ([12]) vâng nghe
Mặc
đời chia phái rẽ phe
Ít
nhiều còn hết, lăm le ([13]) ích gì.
MƯỜI, lời đó nên ghi nên nhớ
Trung thu rồi cúc nở trăng
soi
Trung thu nếu thấy có mòi ([14])
Thì chị em phải hẳn hòi mà
tu.
(. . .)
Thôi Bản Nương chào và ban ơn.
([1]) bí pháp 秘法 (secret method of
inner self-cultivation): Phương pháp tu luyện chỉ truyền riêng cho người được
tuyển chọn, không truyền dạy rộng rãi.
([2]) đảo huyền 倒懸 (hanging upside
down; fig., in dire straits): Treo ngược; nghĩa bóng là tình cảnh xáo trộn, đảo
điên, đau khổ.
([3]) nghiệp đố: Tạm hiểu là tạo nghiệp xấu
bởi nuôi lòng tật đố 嫉妒 (ghen
ghét), đố kỵ 妒忌
(ghen ghét, ghen tỵ).
([6]) như thiết như tha; thiết tha 切磋 (cutting
and polishing; fig., eager and deliberate): Cắt và mài cho bóng; nghĩa
bóng, hết sức thành khẩn, mong mỏi được đáp ứng. Kinh Thi: Như thiết như tha, như trác như ma. 如切如磋, 如琢如磨. (As you cut and then file, as you carve and then polish.)
([8]) Bửu Chương: Bửu Chương Pháp Đạo, gồm mười hai chương, Hội Thánh Truyền Giáo Cao
Đài chưa hoàn thành. Ngày 27-11 Mậu
Tuất (06-01-1959), Đức Lý Thái Bạch dạy:
Sắp loại theo Bửu Chương. Làm được thì nên soạn theo lối kinh văn Lăng Nghiêm, còn không thì như Hiệp Tuyển cũng được. Nhưng sẽ ra một bản kinh
trong thời trung hưng
đạo
pháp. Ngày 04-10 Mậu Thìn
(12-11-1988), Đức Chí Tôn dạy: Thầy bảo
các con kết tập Bửu
Chương Pháp Đạo là làm thành bộ Đại Tạng Cao Đài đó. Trong đàn này Đức Chí Tôn dạy rõ mười hai chương gồm có:
1/ Thiết Lập Giáo Hội – 2/ Chơn Giáo Đại
Thừa – 3/ Thánh Truyền Trung Việt Thời Truyền Giáo – 4/ Nội Vụ Và Thiên Ân Thời
Trung Hưng – 5/ Giáo Hóa Thời Trung Hưng – 6/ Lý Giải Thời Trung Hưng – 7/
Chánh Thể Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ – 8/ Quyền Hành Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
– 9/ Đường Vào Bí Pháp Vô Vi – 10/ Thánh Giáo Khắp Nơi – 11/ Đạo Học Chỉ
([9]) hoài bão 懷抱 (cherishing, embracing): Ôm ấp, ấp ủ
trong lòng (một lý tưởng hay một ước vọng cao đẹp).
([10]) thần 臣 (subject,
subordinate): Bề tôi. Câu trên nói đạo
làm con; câu dưới nói thần
nghe phán định; ý nói tới bổn phận của thần
tử 臣子, vừa là bề tôi trung
thành của Thượng Đế, vừa là con hiếu thảo của Đại Từ Phụ.
([11]) Khuê 睽 (Division): Quẻ
Dịch 38, Hỏa Trạch Khuê . Quẻ Khuê gồm ngoại quái (ở trên) là Ly
(hỏa, lửa), nội quái (ở dưới) là Đoài (trạch, hồ nước). Lửa bay lên, nước hồ
lắng xuống; như vậy hai đàng phân ly, không hợp tác với nhau. – Thời Khuê là thời kỳ chia rẽ, chống đối
nhau. – Cách 革 (Change):
Quẻ Dịch 49, Trạch Hỏa Cách . Quẻ Cách gồm ngoại quái (ở trên) là Đoài
(trạch, hồ nước), nội quái (ở dưới) là Ly (hỏa, lửa). Nước đổ xuống, lửa bốc
lên; như vậy hai đàng xung đột, khủng hoảng tột cùng, một mất một còn, ắt phải đổi
thay. – Thời Cách là thời kỳ làm
cách mạng, thay da đổi thịt, bỏ hết những gì cũ kỹ, hư nát.