18. BA QUẺ DỊCH NÊN HỌC TẬP
Tu xá Phước Huệ
Đàn (Tam Kỳ, Quảng Nam)
ngày 09-9 Canh
Tý (Thứ
Sáu 28-10-1960)
THI
TIẾP kỳ
giáo hóa độ quần lê ([1])
VĂN chất bân bân,([2]) trọn mọi bề
PHÁP đạo đã ban, người gắng
giữ
QUÂN đồng quân mạng ([3]) quyết quay về.
Bản Quân chào chư phận
sự, chư đạo tâm, chư tu sĩ. Mời an vị.([4])
Bản Quân được lệnh Tôn
Sư giao bộ ([5]) tịnh đường
để xét lại những ai sớm chiều trọn nguyện. Nhưng than ôi, máy Tạo mầu vi, lòng
đời còn tà tâm tư dục làm sao thấu được lẽ Trời! Một sắc một không chưa dễ lòng
phàm thấu biết. Máy dinh hư tiêu tức ([6]) thoạt thấy thoạt không, nếu chẳng trọn đức chí thành đâu
dễ suốt tường lẽ Đạo.
Đây, Bản Quân đặt một
bài chứng minh để cho tịnh chúng([7]) rõ đường mà hối quá ([8]) lòng mình,
để sống liền trong máy nhiệm.([9])
Buổi đời hạ nguơn mạt pháp
nầy nhơn loại sống trong vòng đau khổ tối tăm. Cơ khí phát sinh văn minh thịnh
đạt là mầm suy bại mê ngu. Thời nầy bên ngoài ngó như mỹ lệ huy hoàng mà bên
trong tinh thần quá nên suy yếu. Thời nầy gọi là thời Bĩ.([10]) Sau Bĩ đến
Bác.([11]) Bĩ, Bác đã
làm cho chánh pháp lu mờ, phần thì lũ tiểu nhơn đã trở nên cực thịnh. Thế mà
trong đám tàn bạo vô lương kia cũng còn có một hào lục tambiết bỏ bầy tiểu nhơn mà theo cùng quân
tử.([12]) Thượng cửu đã quá mong manh như trứng trong ác. Thế thì dương
đạo đã đến lúc suy tàn. Dương đạo đã suy tàn thì nhơn loại tức khắc phải nguy
vong. Ôi, ai không đáng sợ, đáng kinh!
Thế mà không đâu! Quân
tử không bao giờ tuyệt dứt, tiểu nhơn không mấy thuở trường tồn. Hễ bên nầy một
âm trưởng, thì bên kia một dương cũng trưởng. Ví như mười hai bánh xe đi song
hành. Hễ có trưởng ắt có tiêu, nên sau cái vui có cái buồn. Có cái suy tức là
có cái thạnh. Mỗi ngày mười hai giờ. Mỗi năm mười hai tháng. Lớn ra một nguyên,
một hội,([13]) đều có một quẻ hiện ra, một quẻ ẩn giấu, mà lúc nào ta chỉ
được thấy sáu hào ([14]) cũng như đêm ẩn ngày hiện vậy.
Nói về tháng, như:
- Tháng Giêng, tháng
Bảy: quẻ Thái, quẻ Bĩ.
- Tháng Hai, tháng Tám:
quẻ Tráng, quẻ Quan.
- Tháng Ba, tháng Chín:
quẻ Quải, quẻ Bác.
- Tháng Tư, tháng Mười:
quẻ Càn, quẻ Khôn.
- Tháng Năm, tháng
Mười Một: quẻ Cấu, quẻ Phục.
- Tháng Sáu, tháng
Mười Hai: quẻ Độn, quẻ Lâm.
- Tháng Bảy, tháng
Giêng: quẻ Bĩ, quẻ Thái.
- Tháng Tám, tháng Hai:
quẻ Quan, quẻ Tráng.
- Tháng Chín, tháng Ba:
quẻ Bác, quẻ Quải.
- Tháng Mười, tháng Tư:
quẻ Khôn, quẻ Càn.
- Tháng Mười Một,
tháng Năm: quẻ Phục, quẻ Cấu.
- Tháng Mười Hai,
tháng Sáu: quẻ Lâm, quẻ Độn.
Quay giáp ([15]) lại: Tý Ngọ [Phục Cấu], Sửu Mùi [Lâm Độn], Dần Thân [Thái
Bĩ], Mẹo Dậu [Tráng Quan], Thìn Tuất [Quải Bác], Tỵ Hợi [Càn Khôn], Ngọ Tý [Cấu
Phục], Mùi Sửu [Độn Lâm], Thân Dần [Bĩ Thái], Dậu Mẹo [Quan Tráng], Tuất Thìn
[Bác Quải], Hợi Tý [Khôn Càn].([16])
Vòng bên này: [A]
Phục, Lâm, Thái, Tráng, Quải, Càn;([17]) thì vòng bên kia: [B] Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn.([18]) Mà lúc nào
ta cũng thấy trong mười hai quẻ: Hễ bên này hiện ra Bác, thì bên kia ẩn lấy
Quải mà chờ thời. Tháng nầy là tháng Chín,([19]) là quẻ
Bác. Thế thì các hiền ở trong thời Bác, nên lựa lấy hào nào để tu thân xử sự?
Sau quẻ Bác đến quẻ
Phục, đến Vô Vọng, đến Đại Súc. Hôm nay Bản Quân giải ba quẻ nầy để chư hiền
nương đó mà tu, nương đó mà học mà làm.
1. Đã nói nữ phái được
hồng ân xây dựng một Hội Thánh quyền pháp thì Ơn Trên đã ban cho một bí quyết
thành công. Bí quyết đó là quẻ Phục.([20])
Quẻ Phục là giai đoạn đầu của thời kỳ chỉnh cơ lập pháp, dựng lấy
nền tảng pháp quyền, thế mà nữ phái đã thấy gì đâu. Từ mười mấy ngàn năm nay
chưa có một dịp nào phái yếu được đứng ra hưởng trọn hồng ân như buổi Tam Kỳ
Phổ Độ. Nữ phái đã được bình đẳng trong cơ cứu chuộc của Đạo Trời. Nữ phái
chung bàn sự đời việc đạo. Ân phước lớn lao. Đã chết đi mà được sống lại. Trong
tối tăm hốt nhiên ([21]) xán lạn. Đương
đau khổ mà thấy an nhàn. Ân phước lớn lao kia chẳng những riêng cho nữ phái mà cho
chung cả nhơn loại trên hoàn cầu.
Bác đã thành công,
chốc ([22]) lại hóa buổi Thuần Khôn ([23]) đen tối. Thầy phát tâm từ bi thị hiện ([24]) giữa buổi
thế giới tàn tạ khốn cùng, quay ngược bánh xe thiên điển, tái tạo cho loài
người chuyển Khôn thành Phục. Vì thế mà bốn biển được hồi sinh. Vạn vật nơm nớp
([25]) sống còn
mới thấy lòng háo sinh của trời đất. Nên muốn biết được lòng thương yêu tái tạo
loài người, không ngó đâu ngoài mà ngó vào quẻ Phục.
Quẻ Phục hào sơ cửu ([26]) là hồn nhiên thiên lý, bản thể của chúng sinh. Lôi ([27]) đã khởi
đầu thì trập trùng vạn hóa ([28]) khởi sinh, mà Phục là quay về trở lại nguồn gốc vô vi
thanh tịnh, nhứt khí Hư Vô.([29]) Khí ấy là mẹ đẻ khắp vạn loại. Khí Hư Vô là đó. Khí đã
khởi sanh thì bản sanh hồi cố,([30]) nên dưới Khôn có
Chấn,([31]) cũng như đất có huyền khí thượng thăng,([32]) mà đó cũng là Tổ Mẫu Huyền Quan Nhứt Đạo, thì ráng công tu
dưỡng ngày ngày, đem hết quan thức tâm năng vào trong mà ôn tu, điều dưỡng.
Sơ cửu: Bất viễn phục,([33]) ví như
Nhan Hồi chẳng lỗi hai lần.([34]) Dầu cho
trung chính ([35]) đủ quyền
như lục nhị cũng phải hạ mình mà tùy thuận theo quân tử dương đạo.([36]) Sao mà các hiền không noi lấy để tu. Mãi cứ la đà mê đắm
như hào lục tam.([37]) Mãi cứ tần
thất, tần phục,([38]) tham muốn
hư thân, sám hối nhiều lần, tu rồi bỏ, bỏ rồi tu, kết quả cuộc đời ở đâu vào đó.
Dầu ở trong thời Phục lắm người tội lỗi, chống chế quyền pháp, cố hại người
hiền, các hiền không đủ sức dàn xếp cản ngăn thì ở như hào lục tứ ([39]) độc phục,([40]) thành tâm theo Đạo ([41]) mà dưỡng chí. Nếu hiền nào cảm thông lý nhiệm thì gắng
lòng độc phục, đừng chống trái như thượng lục ([42]) tội lỗi vô cùng. Tội lỗi nầy quá nên táo bạo, chống Trời
không nơi an ẩn.([43])
2. Về quẻ
Thiên Lôi Vô Vọng.([44]) Hào sơ
cũng như sơ cửu quẻ Phục, đã vô vọng ([45]) là hồn nhiên thiên lý, chẳng để một mảy riêng tư. Mà chư tu
sĩ đây đã nguyện đi lên đường giải thoát, phải làm sao tu lấy vô vọng,([46]) phải luôn
luôn chờ đợi lịnh Thầy, biết thời mà xử sự.([47]) Vô vọng
rồi thì thiên hạ tôn trọng. Tôn trọng là được tâm vô vọng.
Sơ cửu, lục nhị đứng
trong thời động mà động là vô vọng.([48]) Cửu tứ, cửu ngũ đứng trong thời tịnh mà tịnh là vô vọng.([49]) Vô vọng
khế hợp với Đạo Trời.
Trái lại, đứng trong
hồi tịnh mà động là vọng,([50]) như thượng
cửu,([51]) thì thân phải nguy. Hơn nữa, tu mà không kềm chế được bản
tánh, không in khuôn ([52]) quyền pháp,
nên phải chịu cái vạ vô cớ, họa gởi tai bay như hào lục tam.([53]) Không ăn
trộm trâu mà người ta nghi mình cắp giấu.([54])
Ở trong thời vô vọng
mà còn vọng, đã tu mà chẳng khép nép tinh tường ([55]) để cho tà
niệm vọng lên,([56]) nên người
lấy đó làm ngờ. Nên khuyên người cẩn thận giữ gìn.
Đã tu phải bị khảo. Ma
có khảo, đạo mới thành.([57]) Sự thử
thách nầy nào khác chi hào cửu ngũ,([58]) đã được trung
được chính,(
[59]) thì có
ngại gì tai tật ([60]) qua loa.
Thế thường hễ đau là
uống thuốc, mà ở trong vô vọng thì [nào] có tật ([61]) gì. Dầu có
như Khổng Phu Tử bị vây khốn ở Trần, Thái mà giữ được thanh tịnh tự nhiên;([62]) rồi muôn việc cũng qua, mà tỏ được chí mình hồn nhiên vô
vọng.
Nên người tu như các
Thiên ân hướng đạo, như chư tu sĩ xuất gia lo gì mà không đủ trợ duyên phần no
ấm.([63]) Ăn cơm
nhân dân, làm việc xã hội, thọ ân đạo tràng, khai thông đạo pháp. Nên làm con
người sống với mười phương. Đừng nhỏ nhen. Ăn cơm nhà, làm việc nhà, chưa phải
con người tu sĩ.
3. Quẻ Đại
Súc,([64]) tượng từ
cho biết ([65]) là uốn nắn con người có cái lòng vô vọng, có cái pháp vô
vi, uẩn súc ([66]) nơi trong
đầy đủ, tài đức vẹn toàn để gánh vác Đạo Trời, lo cho phong thuần tục mỹ,([67]) súc tụ ([68]) được tinh
ba Tạo Hóa, quyền pháp đầy đủ, thì lo gì không vui đẹp.([69])
Nhưng người quân tử
không nên chấp ([70]) một điều
nào. Quán ([71]) vô thường,
vô ngã, vô tướng, vô nguyện,([72]) để chịu đựng
với bao nghịch cảnh oái oăm.([73])
Không phải lúc nào dương
cũng cứng, âm phải mềm. Ở thời Súc nầy, âm súc dương ([74]) nên người quân tử phải biết thời mà hạ mình, ẩn nhẫn ([75]) lo trọn lấy đạo vô vi.
Ôi, sơ nhị dương cương!
([76]) Quân tử mà
sơ bị lục tứ chỉ súc; nhị bị lục ngũ cản ngăn; thế mà sơ phải ép nép chịu hư, nhị
được trung kiên Càn tượng mà cũng thối bước dừng chơn.([77])
Ôi! Cái thời sao mà
quá đau đớn cho người quân tử, dầu tài ba đức độ như cửu nhị cũng phải tháo
trục gác xe.([78]) Âm đã đến
buổi cường bạo lớn lao thì dầu dương có cương kiện cũng không sao tiến được. Tứ
âm mà súc sơ dương,([79]) đến như
câu Đồng ngưu chi cốc.([80])
Lục ngũ súc cửu nhị,([81]) thật không nói ứng đối làm gì, nhơn tình là thế! Đau đớn
cho lục ngũ, tàn bạo như vật có vuốt, có nanh.([82]) Nếu không biết cách tảo trừ độc hại thì đạo pháp đâu còn,
vì vậy mà nói: Phần thỉ chi nha, cát.([83])
Các hiền tu nên học
quẻ nầy để xét xử nhơn tình, an mạng thính Thiên.([84]) Quẻ nầy âm
súc dương,([85]) tức là
tiểu nhơn cầm quyền quân tử.([86]) Nên hào cửu
tam, thượng cửu lại tương đồng tương đắc, hòa nhau mà tiến, lo cho mối Đạo đại
hành.([87])
Ba quẻ nầy nên đem ra
học tập.([88])
Xin chào quý liệt đẳng
chư hướng đạo, chư tu sĩ.
([2]) văn chất bân bân 文質彬彬 (refinement and raw qualities are equally blended): Văn nhã và chất
phác đều nhau. Luận Ngữ (6:18) chép
lời Đức Khổng Tử: Chất thắng văn tắc dã;
văn thắng chất tắc sử; văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử. 勝文則野; 文勝質則史; 文質彬彬; 然後君子. Chất phác trội hơn văn nhã là kẻ quê mùa; văn nhã
trội hơn chất phác là kẻ chép sử (thư ký); văn nhã và chất phác ngang nhau là
người quân tử. (If raw substance
dominates refinement, that’s a rustic man. If refinement dominates raw substance,
that’s a clerk. When refinement and raw qualities are well blended, that’s a
superior man.)
([6]) dinh hư
tiêu tức 盈虛消息 (full, not full,
decreasing, increasing): Đầy vơi giảm tăng (đồng nghĩa dinh hư tiêu trưởng 盈虛消長.
Kinh Dịch (quẻ Phong 豐): Nhựt trung tắc
trắc, nguyệt dinh tắc thực, thiên địa dinh hư, dữ thời tiêu tức, nhi huống ư
nhân hồ? huống ư quỷ thần hồ? 日中則昃, 月盈則食, 天地盈虛, 與時消息, 而況於人乎? 況於鬼神乎? The
sun at midday will decline; the full moon will wane. If heaven and earth are
now full, now not full, and decrease or increase with the seasons, let alone
men! Let alone deities! (Mặt trời lên đỉnh đầu sẽ xế, trăng đầy sẽ khuyết,
trời đất đầy vơi, cùng với thời gian mà giảm hay tăng. Huống hồ con người?
Huống hồ quỷ thần?) – máy dinh hư tiêu tức (Tạo Hóa chi cơ 造化之機: the
mechanism of nature, the mechanism of yin-yang): Máy Tạo, máy âm dương, sự
vận hành của trời đất.
([7]) tịnh chúng 淨眾 (inner
self-cultivators): Các tịnh sĩ, các tịnh viên, những người tu tịnh (tịnh
luyện).
([10]) Bĩ: Thiên
Địa Bĩ 天地否 (Heaven-Earth
Standstill), quẻ Dịch 12, ứng vào thời kỳ con người
trọng vật chất, ham đấu tranh, chạy theo dục vọng, sống phù phiếm. Đạo đức,
nhân nghĩa hời hợt trên đầu môi chót lưỡi, xa rời lòng người.
([11]) Bác: Sơn Địa Bác 山地剝 (Mountain-Earth Splitting Apart), quẻ Dịch 23, ứng vào thời kỳ tà thuyết
thịnh, chánh đạo suy, đất nước thiếu lãnh tụ anh minh, đời vắng bóng hiền nhân,
quân tử.
([12]) hào lục tam (lục tam hào 六三爻: the
third six); thượng cửu [hào] 上九爻 (the top nine): Hào lục là hào âm (vạch đứt),
thường tượng trưng tiểu nhân. Hào cửu
là hào dương (vạch liền), thường tượng
trưng quân tử. Mỗi quẻ có sáu hào. Từ dưới đếm lên thì lục tam là hào âm thứ ba, và thượng
cửu là hào dương thứ sáu (ở trên cùng). Trong quẻ Sơn Địa Bác , hào lục tam ở
giữa một đám tiểu nhân, nhưng theo nguyên tắc đối ứng (hào 1 ứng với hào 4, hào
2 ứng với hào 5, hào 3 ứng với hào 6) thì lục
tam ứng với thượng cửu, và Đức
Tiếp Văn Pháp Quân giảng là một hào lục
tam biết bỏ bầy tiểu nhơn mà theo cùng quân tử.
([13]) Theo
Hoàng Cực Kinh Thế 皇極經世 của Thiệu Khang Tiết 邵康節
(1011-1077) thì một nguyên 元 gồm
12 hội 會; một hội gồm 30 vận 運; một vận gồm 12 thế 世, một thế gồm 30 năm. Vậy, một vận gồm 360 năm, một hội
gồm 10.800 năm, một nguyên gồm 129.600 năm.
([14]) sáu hào (lục hào 六爻: six
lines): Sáu vạch của mỗi quẻ Dịch, hoặc là vạch đứt (hào âm, gọi là lục) hay liền (hào dương, gọi là cửu).
([15]) giáp: Mười hai con giáp (Tý, Sửu, Dần,
Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi), phối hợp thành mười hai cặp,
ứng với mười hai cặp quẻ. Mười hai cặp quẻ như [Phục Cấu], [Lâm Độn], v.v… kèm
theo từng cặp giáp là do chúng tôi thêm vào.
([16]) Xem
sáu đường kinh tâm (diameters) nối
sáu cặp quẻ Dịch trong sơ đồ chúng tôi vẽ thêm (xem ở trên) để minh
họa lời dạy của Đức Tiếp Văn Pháp Quân.
([17]) Bắt
đầu từ quẻ Phục vì có nhất dương sanh (ứng với Tý, tháng Mười Một âm lịch).Từ
Phục tới Càn là dương trưởng âm tiêu.
([18]) Bắt
đầu từ quẻ Cấu vì có nhất âm sanh (ứng với Ngọ, tháng Năm âm lịch). Từ Cấu tới
Khôn là âm trưởng dương tiêu.
([20]) Phục: Địa Lôi Phục 地雷復 (Earth-Thunder Return), quẻ Dịch 24, ứng vào thời
kỳ đạo lý hồi phục, con người biết quay về với những giá trị tinh thần, tâm
linh cao quý mà họ đã quay lưng chối bỏ trong thời kỳ Bát Thuần Khôn.
([23]) Thuần Khôn: Bát Thuần Khôn 八純坤, quẻ Dịch 2, ứng vào thời kỳ mạt kiếp, mạt
pháp, nhiễu nhương máu lửa. Quẻ Khôn dạy con người hãy luôn đề phòng, đừng để
nước đến chân mới nhảy; hãy biết nhìn xa trông rộng, lo toan, ngăn chặn ngay từ
lúc hiểm họa mới manh nha. Để hộ mạng, hãy biết tích đức, tu nhân, làm lành
lánh dữ. Quẻ Khôn dạy con người hãy biết nhu thuận, hòa hợp, để chung tay góp
sức đắp xây việc lớn.
([26]) hào sơ cửu (sơ cửu hào 初九爻: the bottom nine): Vạch liền ở dưới cùng
của quẻ Phục, là hào dương.
([29]) khí Hư Vô (Hư Vô chi khí
虛無之氣): Là khí Hồng Mông, khí Tiên Thiên khi vũ
trụ chưa tạo thành. Khí Hư Vô sinh ra Thái Cực.
([30]) bản sanh hồi cố 本生回固 (one’s
own vitality regains its strength): Sự sống vốn có trong mỗi người hồi phục
sức mạnh.
([31]) Quẻ
Phục gồm ngoại quái Khôn 坤 (Earth:
Đất) nằm
trên, và nội quái Chấn 震 (Thunder: Sấm sét) nằm
dưới.
([33]) Sơ cửu:
Bất viễn phục. 初九: 不復遠 (The bottom nine: Returning from a short distance):
Hào một dương: Chưa đi xa đã quay trở về; ý nói lỗi lầm vừa mới chớm là biết
hối cải liền.
([34]) Nhan Hồi chẳng lỗi hai lần: Câu này dẫn
lại Hệ Từ Hạ, nguyên văn: [顏回] 有不善未嘗不知, 知之未嘗復行也. [Nhan Hồi] Hữu bất thiện vị
thường bất tri, tri chi vị
thường phục hành dã. (Nhan Hồi có điều chẳng
lành thì chưa hề không biết lỗi; đã biết lỗi ấy rồi thì chưa hề tái phạm vậy.
([35]) trung chính 中正: Hào
lục nhị nằm giữa nội quái quẻ Phục nên đắc trung.
Hào này ở vị trí âm (nhị) và bản
chất lại âm (lục) nên đắc chính. Vậy gọi là trung chính, tức là đắc trung đắc chính.
([36]) quân tử dương đạo: Là nói hào sơ cửu
quẻ Phục. Lục nhị ở bên trên sơ cửu nên Đức Tiếp Văn Pháp Quân bảo lục nhị cũng phải hạ mình mà tùy thuận theo
quân tử dương đạo.
([37]) hào lục tam (lục tam hào 六三爻: the
third six): Vạch đứt thứ ba của quẻ Phục, từ dưới đếm lên, là hào âm. Hào
này tượng trưng những người thiếu nghị lực, muốn bỏ tật xấu mà không thể dứt
bỏ, vẫn yếu lòng nên tái phạm nhiều lần, giống như đã biết tắm rửa sạch sẽ rồi
mà vẫn lấy quần áo dơ bẩn mặc lại.
([38]) tần thất, tần phục 頻失, 頻復 (frequently making mistakes and frequently
repenting): Thường xuyên phạm lỗi và thường xuyên ăn năn. Tần phục là hai chữ dùng trong hào lục
tam. Đức Tiếp Văn Pháp Quân giải thích ý nghĩa cụm từ tần thất, tần phục như sau: tham
muốn hư thân, sám hối nhiều lần, tu rồi bỏ, bỏ rồi tu.
([39]) hào lục tứ (lục tứ hào 六四爻: the
fourth six): Vạch đứt thứ tư của quẻ Phục, từ dưới đếm lên, là hào âm.
([40]) Lục tứ: Trung hành độc phục. 六四: 中行獨復 (The fourth six: Walking in the midst of
others, returning alone to one’s proper path): Đây là hào từ của lục tứ.
Hào này tượng trưng những người sống như những cánh sen trong bùn, gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn. Tuy sống trong xã hội điên đảo, giữa đám tiểu nhân, họ
vẫn giữ vẹn đạo lý, một mình lẻ loi trở về với chánh đạo (đó là độc phục).
([41]) theo Đạo (tòng Đạo 從道: following the Dao): Tượng từ 象詞 của
hào lục tứ nói: Trung hành độc phục, dĩ
tòng Đạo dã. 中行獨復, 以從 道也.
(Một mình quay về để mà theo Đạo vậy.)
([42]) thượng lục 上六 (the top six): Vạch đứt ở trên cùng của
quẻ Phục, là hào âm. Hào này tượng trưng cho những người ở địa vị cao tột mà u
mê, không chịu gần người hiền, không biết phục thiện để cải tà quy chánh, lại ỷ
quyền thế mà bất chấp tất cả lẽ phải, coi trời bằng vung. Vì vậy Đức Tiếp Văn
Pháp Quân bảo rằng họ tội lỗi vô cùng,
táo bạo, chống Trời.
([45]) vô vọng 無妄 (innocent, innocence): Đức Tiếp Văn Pháp Quân giảng là: hồn nhiên thiên lý, chẳng để một mảy riêng
tư.
([47]) biết thời mà xử sự (acting in accordance with circumstances):
Đức Tiếp Văn Pháp Quân sẽ giảng thêm ý này ở đoạn dưới khi nói về sơ cửu, lục nhị, và về cửu tứ, cửu ngũ.
([48]) Hành
động hợp thời nên được vô vọng. Ở đây
vọng nghĩa là tùy tiện, bất cẩn,
không nghĩ tới hậu quả (rash, reckless,
impetuous).
([49]) Ở
yên hợp thời nên cũng được vô vọng. Ở
đây vọng nghĩa là tùy tiện, bất cẩn,
không nghĩ tới hậu quả (rash, reckless,
impetuous).
([51]) thượng cửu 上九 (the
top nine): Vạch liền trên cùng của quẻ Vô Vọng, là hào dương. Hào này cảnh
báo rằng hành động không hợp thời thì mang họa, tức là hành hữu sảnh (行有眚: improper action brings misfortune) như hào từ 爻詞 của thượng cửu đã nói.
([53]) hào lục tam (lục tam hào 六三爻: the
third six): Vạch đứt thứ ba của quẻ Vô Vọng, từ dưới đếm lên, là hào âm.
Hào này cảnh báo về những tai bay vạ gió trong đời người.
([54]) Câu
này nhắc tới hào từ của lục tam: Hoặc hệ
chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai. 或繫之牛, 行人之得, 邑人之災.
(Trâu đang buộc, kẻ bộ hành nhìn thấy bèn dắt đi mất, khiến người trong ấp mang
họa vì bị nghi ngờ trộm trâu.)
([58]) hào cửu ngũ (cửu ngũ hào 九五爻: the
fifth nine): Vạch liền thứ năm của quẻ Vô Vọng, từ dưới đếm lên, là hào
dương. Hào này khuyên chớ lo lắng về bệnh tật; khỏi dùng thuốc men mà vui được
lành bệnh. Vô vọng chi tật, vật dược hữu
hỷ. 無妄之疾, 勿藥有喜.
([59]) được trung được chính (đắc trung đắc chính: 得中得正): Hào cửu ngũ nằm giữa ngoại quái quẻ Vô
Vọng nên đắc trung. Hào này ở vị trí
dương (ngũ) và bản chất lại dương (cửu) nên đắc chính. Vậy gọi là được trung được chính. Hào cửu ngũ đắc trung đắc
chính tượng trưng bậc chính nhân quân tử; những tai tật qua loa (những khảo thí
vặt vãnh) không ảnh hưởng mảy may đến ý chí kiên định của bậc chính nhân quân
tử.
([62]) Khổng Phu Tử bị vây khốn ở Trần, Thái:
Tích này gọi là Trần Thái tuyệt lương 陳蔡絕糧 (Out of food in Chen and Cai: Hết sạch
lương thực tại biên giới Trần và Thái), cũng gọi là Tại Trần tuyệt lương 在陳絕糧. Luận Ngữ (15:2) chép: Tại Trần tuyệt lương, tòng giả bệnh, mạc năng hưng. 在陳絕糧, 從者病, 莫能興. (Tại nước Trần, thầy trò cạn hết lương thực, đệ tử đi theo ngã bệnh, không ai ngồi dậy nổi.) Tiểu thuyết Đông
([63]) Người xuất gia hay bậc
Thiên ân hiến thân hành đạo phải sống nhờ vào tài vật bá tánh cung dưỡng 供養 (tức là cúng dường); đói no ấm lạnh phải tùy thuộc người
khác. Do đó, trong số các vị ấy ắt khó tránh khỏi có người chạnh lòng âu lo, vì
lẽ tục ngữ bảo:
Không cày mà thu hoạch
ư? Điều tưởng chừng nghịch lý này suy ra chẳng hề khác lời Chúa Giê-su dạy các tông đồ:
Vì
vậy Thầy bảo cho anh em biết, đừng lo cho mạng sống – Lấy gì mà ăn? Cũng đừng
lo cho thân thể – Lấy gì mà mặc? Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể
chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt,
không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại
chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng mà kéo dài đời
mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy
ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học. Chúng không làm
lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết, ngay cả vua Sa-lô-môn,
dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy, nếu hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như
thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng
tự hỏi rằng ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây. (Mát-thêu
6:25-31)
Therefore I tell
you, do not worry about your life, what you will eat or drink; or about your
body, what you will wear. Is not life more than food, and the body more than
clothes? Look at the birds of the air; they do not sow or reap or store away in
barns, and yet your heavenly Father feeds them. Are you not much more valuable
than they? Can any one of you by worrying add a single hour to your life? And
why do you worry about clothes? See how the flowers of the field grow. They do
not labor or spin. Yet I tell you that not even Solomon in all his splendor was
dressed like one of these. If that is how God clothes the grass of the field,
which is here today and tomorrow is thrown into the fire, will he not much more
clothe you – you of little faith? So do not worry, saying, “What shall we eat?”
or “What shall we drink?” or “What shall we wear?”
([64]) Đại Súc: Sơn Thiên Đại Súc 山天大畜 (Mountain-Heaven Great Accumulation), quẻ Dịch 26. Súc nghĩa là súc tích (accumulation). Đức Tiếp Văn Pháp
Quân giảng súc là uẩn súc, súc tụ.
([65]) tượng từ 象詞: Tức là Đại Tượng Truyện (lời bàn về hình tượng) của
quẻ Sơn Thiên Đại Súc: Thiên tại sơn
trung. Đại súc. Quân tử dĩ đa thức tiền ngôn vãng hạnh, dĩ súc kỳ đức. 天在山中. 大畜. 君 子以多識前言往行, 以畜其德. (Heaven within the
mountain. Great Accumulation. Thus, the
superior man acquaints himself with many sayings of antiquity, and many good
deeds [as well as virtues] of the past in order to strengthen his character
thereby.) Hình tượng quẻ Đại Súc
là Cấn (núi)
ở ngoài, Càn (trời)
ở trong, nên tượng từ nói thiên tại sơn
trung (trời ở trong núi), chỉ sự tích trữ to lớn (đại súc). Người quân tử
hãy noi theo tượng ấy mà học nằm lòng nhiều lời hay và việc làm tốt (cũng như
hạnh tốt) của người xưa để nuôi dưỡng đạo đức cho bản thân.
([66]) uẩn súc 蘊蓄 (accumulating):
Uẩn và súc đồng nghĩa là tích chứa, tích tụ. Chữ uẩn còn có nghĩa là tiềm tàng, không phô bày ra (latent, hidden) nên Đức Tiếp Văn Pháp
Quân nói rõ là uẩn súc nơi trong đầy đủ (full and hidden accumulation).
([67]) phong thuần tục mỹ 風淳俗美 (customs
becoming pure and beautiful): Phong tục được tốt đẹp, không lai tạp các
thói xấu. Trong cụm từ này thuần, mỹ dùng
như động từ. Khi nói thuần phong mỹ tục (pure and beautiful customs) thì thuần, mỹ dùng như tính từ.
([69]) lo gì không vui đẹp: Đức Tiếp Văn Pháp
Quân nhắc tới lời thoán quẻ Đại Súc, bảo là lợi
trinh 利貞 (có lợi và bền vững), cát 吉 (tốt đẹp), lợi thiệp đại xuyên 利涉大川 (qua
sông lớn an lành).
([70]) chấp 執 (rigidly clinging to sth): Cố chấp 固執, chấp nhất 執一, câu nệ 拘泥, câu chấp 拘執, bám cứng nhắc điều
gì.
([72]) vô
thường 無常 (impermanent;
passing away): Không bền vững lâu dài; chết đi. – vô ngã: Tức
là vô
ngã vô nhơn 無我無人 (without
distinction between self and others): Không còn phân biệt ta và người, có
lòng vô tư của trời đất, như hạt mưa, giọt nắng vẫn ban đều khắp cho người hiền
lành lẫn kẻ không hiền lành. Phúc Âm nói về tâm thiên địa (lòng trời đất) của
Đức Thượng Đế (Trời Cha) như sau: Người
cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa
xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. (Mát-thêu 5:45). – vô tướng 無相 (formlessness):
Hết thảy mọi sự trong thế gian thành hình đều do nhân duyên tạm thời hòa hợp (giả hợp 假合: temporary
combination), thế nên không có hình tướng bất biến. Hễ hết duyên thì chúng
tan biến. Do đó, đừng chấp tướng. – quán
vô nguyện (vô nguyện quán 無願觀): Chiêm nghiệm thấu suốt rằng vô nguyện bất thành 無願不成 (no
vow no accomplishment), nên phải có nguyện lực mạnh mẽ (đại nguyện lực 大願力: great
vow power) giống như chư Bồ Tát, chư Phật để tu học và phụng sự mới có thể
tự thắng bản thân vốn yếu đuối trước cám dỗ và đủ sức vượt qua mọi hoàn cảnh
chướng ngại thử thách gan dạ người tu.
([73]) để chịu đựng
với bao nghịch cảnh oái oăm: Khi nói lời này, Đức Tiếp Văn Pháp Quân đã lột tả rốt ráo
cái thâm thúy ẩn tàng của hai chữ Đại
Súc. Người tu xuất gia, bậc Thiên ân hướng đạo phải thường xuyên hàm dưỡng,
luôn luôn tích tụ cho mình một nội công thâm hậu thì mới không phải gặp cảnh
nửa đường gãy gánh (bán đồ nhi phế 半途而廢: giving up halfway). Trong lịch sử các dòng tu, đâu hiếm những người xuất
gia rồi cũng đành hoàn tục. Trong lịch sử các hội thánh, đâu hiếm những Thiên
ân chức sắc rốt cuộc phải cổi áo mão mà trở về với mảnh đời tục lụy.
([74]) âm súc dương 陰縮陽 (the yin
withdrawing the yang): Âm cản trở dương. Chữ súc 縮 này là chơi chữ (mượn từ
đồng âm khác nghĩa với chữ súc 畜
trong Đại Súc); chữ súc 縮 ở đây nghĩa là cản trở, không cho người quân
tử hành động (withdrawing a superior man;
preventing a superior man from participating in an activity).
([75]) biết thời mà hạ mình, ẩn nhẫn: Chỗ này
ám hợp với câu (Đ)ứng trong thời tịnh mà
tịnh là vô vọng, trong phần Đức Tiếp Văn Pháp Quân giảng về hào cửu tứ, cửu
ngũ của quẻ Thiên Lôi Vô Vọng.
([76]) Hào
sơ cửu (hào một, dương) và hào cửu nhị (hào hai, dương) quẻ Đại Súc. Dương
tượng trưng người quân tử, trong bối cảnh bài thánh giáo thì quân tử ám chỉ tu
sĩ xuất gia, bậc Thiên ân hướng đạo.
([77]) Đoạn
này Đức Tiếp Văn Pháp Quân giảng về hai cặp hào ứng (sơ cửu ứng với lục tứ, và
cửu nhị ứng với lục ngũ). Hào ứng (ứng
hào 應爻: corresponding
lines) tức là ba cặp hào 1-4, 2-5, và 3-6 tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. – Quân tử mà sơ bị lục tứ chỉ súc (…) sơ phải ép nép chịu hư: Hào sơ (dương)
bị hào ứng của nó là lục tứ (âm) cản trở. Ở đây, chỉ 止 nghĩa là ngăn cản, cản trở (hindering, obstructing). Chỉ súc nghĩa là cản trở nỗ lực tiến đức tu nghiệp 進德修業 của người quân tử. – nhị bị lục ngũ cản ngăn: Hào cửu nhị (dương) bị hào ứng của nó là
lục ngũ (âm) cản trở; nên hào từ bảo là dư
thoát phúc 輿說輹 (a carriage without two axles), nghĩa là xe bị tháo gỡ hai trục,
không còn gắn bốn bánh nữa, tức nhiên xe chịu bỏ xó. – nhị được trung kiên Càn tượng: Hào cửu nhị đắc trung (nằm giữa) và
dương (Càn tượng). – mà cũng thối bước dừng chơn: Tức là ẩn
ý dư thoát phúc (xe bị bỏ xó).
([78]) tháo trục gác xe (removing two axles and leaving a carriage unused): Nhắc lại ý dư thoát phúc trong hào từ.
([80]) Đồng ngưu chi cốc 童牛之牿 (a
young bull with a piece of wood over its horns): Là lời hào lục tứ, nghĩa
là trâu non bị gông sừng. (Trước khi trâu lớn, đóng gông hai sừng để nó không
húc càn, gây họa.) Khi giảng hào này, các học giả thường nói rằng muốn ngăn cái
ác, phải ra tay khi nó chưa phát tác. Nhưng trong bài thánh giáo này, phải
chăng là lời ngậm ngùi cảm thương cho người quân tử (sơ cửu), họ chưa kịp thi
thố chi hết thì đã bị nghịch cảnh (lục tứ) sớm ngăn chận từ trong trứng nước.
([81]) lục ngũ súc cửu nhị 六五縮九二 (the
fifth six withdraws the second nine): Hào năm âm ứng với hào hai dương và
cản trở hào hai.
([82]) Hào
lục ngũ bản chất là âm (tiểu nhân), ở vị trí thứ năm (quân vương). Ở đây hiểu
rộng ra là cường quyền cai trị, độc tài bạo ngược dữ dằn như hùm beo, lang sói.
Vì vậy, Đức Tiếp Văn Pháp Quân than rằng tàn
bạo như vật có vuốt, có nanh. Đọc tới chỗ này, không khỏi chạnh nhớ hồi năm
1934, khi một nhóm nhỏ thanh thiếu niên (Tứ Linh Đồng Tử) chân ướt chân ráo về
Trung Kỳ truyền đạo liền bị cường quyền (thực dân Pháp và quan lại triều
Nguyễn) thẳng tay đàn áp, bắt bớ, vì họ quyết dập tắt nền Đạo ngay từ lúc mới
vừa manh nha chút mầm non còn mỏng yếu.
([83]) Phần thỉ
chi nha, cát 豶豕之牙, 吉 (a gelded boar’s tusks, good):
Nanh heo thiến thì tốt. Đây là hào từ của lục ngũ. Ý nói heo thiến rồi thì
không còn hung hãn, nên có nanh cũng không nguy hại. Đây là cách ngăn ngừa cái
ác, quét sạch (tảo trừ 掃除: sweeping
away) độc hại trước khi nó xảy ra.
([87])
Tượng từ của thượng cửu nói: Hà Thiên chi
cù. Đạo đại hành dã. 何天之衢. 道大行也. (How
great is the Heaven’s way! Carry it out on a grand scale.): Đường Trời rộng
mở thênh thang. Hãy ra sức thi hành Đạo Trời khắp chốn. Lúc này người quân tử
không còn bị cản trở (cửu tam ứng thượng cửu: tương đồng tương đắc, hòa nhau mà tiến); vậy thì đem hết công phu
tu học, hàm dưỡng bấy lâu ra thi thố, hoằng hóa Đạo Trời cho phỉ chí tang bồng.