17. LO TU HƯỞNG LẤY PHƯỚC TRỜI
Trung Hưng Bửu
Tòa (Đà Nẵng)
ngày 15-8 Canh Tý (Thứ Tư 05-10-1960)
THI
BẢO chị em ta sớm trở về
THỌ
truyền bí pháp ([1]) luyện đơn khuê ([2])
THÁNH
phàm hai nẻo cân đo ([3]) kỹ
NƯƠNG
cậy cùng nhau trọn chữ thề.
Bản
Nương chào chư quý vị Thiên phong. Chào chư đạo tâm và chị em nữ phái.
Giờ
nầy, một dịp hồng ân hiếm được. Toàn đạo tâm nghiêm chỉnh đàn tiền, đón tiếp
Cửu Nương ([4]) nương cơ đến hộ triều Đức Từ Tôn Phật
Mẫu.
Thanh
tịnh. Đọc bài cầu Đức Mẹ.
TIẾP
ĐIỂN
DIÊU diêu ([5]) bất động pháp quy căn ([6])
TRÌ
chí ([7]) mà tu chỗ giáng thăng ([8])
NHỨT
điểm chơn như ([9]) thân vẹn giữ
NƯƠNG
Thầy nương bạn, lỗi ăn năn.([10])
DIÊU Cung lòng Mẹ chạnh niềm thương
TRÌ
trễ cho nên lỡ bước đường
NHỊ nhứt thế gian no ấm đủ ([11])
NƯƠNG đâu trở lại chỗ Thiên Đường.
DIÊU động ([12])
lòng tham, thánh hóa phàm
TRÌ trì kéo kéo bởi mê ham
TAM Nguơn ([13])
dựng lại,([14])
mau tu học ([15])
NƯƠNG phép quyền trên, chớ biện đàm.([16])
DIÊU Điện chị em những
đợi chờ
TRÌ trì hoãn hoãn, dạ thờ ơ
TỨ tam khuyên nhắc, không ghi dạ ([17])
NƯƠNG cậy quyền danh phải tối mờ.([18])
DIÊU diêu cõi thọ chị em chờ
TRÌ
thủ tu hành chớ để lơ
NGŨ
giới tam quy rèn tập mãi
NƯƠNG
cùng Hội Thánh đón huyền cơ.
DIÊU Động Mẹ chờ mấy chị em
TRÌ
hành pháp đạo tiến từng phen
LỤC
căn ([19]) đừng để vương tình ái
NƯƠNG
thế rồi ra phải tỵ hiềm.([20])
DIÊU Đài cảnh cũ chị em ơi
TRÌ
hoãn rồi ra phải mất rồi
THẤT
bửu kim đơn Thầy đã chỉ ([21])
NƯƠNG
theo Thần Khí ráng vun bồi.
DIÊU động lòng rồi lạc hậu thiên
TRÌ
trì khó độ, nặng tiền khiên ([22])
BÁT
môn trận địa ra vào khéo ([23])
NƯƠNG
cậy thần thơ thấy diệu huyền.
DIÊU động từ nơi một khí sanh
TRÌ
tu bát quái hóa năm hành
CỬU
Thiên khai tạo sanh muôn vật
NƯƠNG
ở Đạo huỳnh ([24]) hỗn nhứt danh. ([25])
Cửu
Nương Chư Thánh ngự bút mừng lễ tấn tôn.([26]) Chúc Thiên phong, chức sắc đạo tràng thành công trên
đường tu thân giải thoát.
Giờ
nầy có Đức Mẹ ngự lâm, chư Thiên phong và đạo tràng chỉnh tu cân phục ([27]) để đón mừng Đức Từ Tôn cho được trọng thể.
Chư
Thánh chúng tôi xuất cơ hầu Giá.([28])
TIẾP
ĐIỂN
Mẹ
mừng các con.
VÔ tâm ([29]) thì được nhận hồng ân
CỰC
Mẹ vì con đã mấy lần
TỪ
đó đến nay chưa gắng chí
TÔN
quyền trọng pháp ([30]) mới yên thân.
Mẹ
miễn lễ. Các con ngồi tọa thiền theo pháp,([31]) để thần tại Khí Hải ([32]) mà nghe Mẹ dạy.
BÀI
Hôm nay các trẻ về đây
Đón
mừng Đức Mẹ, xin Thầy gia ân.([33])
Mẹ nhìn con muôn phần thương xót
Mẹ
dạy con đã trót nhiều năm
Lòng
con như mối tơ tằm ([34])
Gỡ
ra cho được bao lăm ([35]) mới rồi.
Nầy các con ráng ngồi nghe dạy
Để
rõ ràng trái phải mà theo
Chuyện
đời con cứ leo đeo ([36])
Đường
tu giải thoát không trèo khó sang.
Từ thuở lập Liên Đoàn Nữ Phái ([37])
Từ
ngày con triều bái thọ phong
Trông
con như nước lộn dòng
Tình
hình nội bộ nhiều lòng nọ kia.
Nay Mẹ giáng canh khuya chỉ dạy
Khuyên
các con sớm phải nghe lời
Rửa
tay phủi sạch bụi đời
Lo tu hưởng lấy
phước Trời dài lâu.([38])
Con có tu, con đâu có khổ
Con
có tu, có chỗ Mẹ dành
Con tu, quả
đạo con thành
Con nương quyền
pháp, con lành tấm thân.
Con nghe Mẹ,
lần lần giải thoát
Giải thoát
rồi cánh hạc nhẹ phơi
Nếu con luẩn
quẩn dưới đời
Đến khi ách
nước tai trời ([39]) khổ
nguy.
Nguy ở thế, A Tỳ ([40]) chẳng
thứ
Bởi tội con, nghịch tử ([41]) bất
tuân
Tội con như lá trong rừng ([42])
Mẹ thương cũng khó để lòng chở che.
Con nữ phái, con nghe
nên giữ
Lỡ qua kỳ ân tứ ([43]) khó
tìm
Giữa con chớ có tỵ hiềm
Một lòng một dạ đắp thêm thân hòa.
Muốn xây dựng một Tòa
Hội Thánh
Thì
nữ nam chia gánh liệu lo
Lời
Thầy đã hứa ưng cho
Làm
sao trên dưới nhỏ to luận bàn.
Có Hội Thánh, trước toan mấy việc
Việc
nội tình thân thiết cậy tin
Lỗi
lầm xúm lại mà xin
Quyết
lòng cải hóa trọn gìn thánh ân.
Chư chức sắc quên thân vì Đạo
Xa
gần đều hoài bão tư duy ([44])
Đừng
còn sớm thị chiều phi ([45])
Làm
người hướng đạo gắng ghi trọn tình.
Đoàn giáo chức, giáo sinh xây dựng
Có
người rồi quy chuẩn ([46]) được nêu
Tinh
thần thường bữa thường khêu
Cho
cao đạo hạnh, cho đều chí tu.
Các
con đổi thế trụ thiền.
Mẹ
hôm nay đến chỉ chứng lòng và ban ơn. Ơn đã đến cho từng mỗi con. Nếu mỗi con
biết, con đưa tay mà đón thì phước huệ sẽ dồi dào, mọi việc con làm không có gì
khó cả.
Mẹ
hôm nay muốn cho nữ phái nơi đây có một quyền pháp lành mạnh để xứng đáng và
khỏi uổng công trình xây đắp từ lâu.
Mẹ
đã nhiều phen dạy bảo. Một là trong hàng Thiên ân, từ trên đến dưới, đều được
tận tụy với nhiệm vụ mình, nương lấy quyền pháp đó mà chen thân, mượn chức
trách nầy đặng dễ bề chế ngự lòng phàm, tiện phần lập công tu học. Các con nhờ
chức vụ được gắn mà dễ bề gần Thầy được đạo. Các con cố giữ nó cho còn thì đời
con trở nên tốt đẹp, thân con không bị trần lỗ,([47]) xấu xa. Con nhờ đó làm bùa hộ mạng, làm phép tiêu
oan.([48]) Ngày nào con tự bỏ nó ([49]) ra là ngày đó lần lần con sẽ đi xa ngoài đạo pháp mà
gần với ma tà tội lỗi. Nếu con nào chưa thọ pháp thượng thừa thì cũng phải cần
có một chức vụ mà tu. Điều ấy cần cho các con lắm.
Đứa
nào có chức vụ rồi, mà lười nhác thối thác, thật là đen tối vô cùng. Đã được ơn
Trời cho, hay Hội Thánh gắn vào thì ráng giữ. Không đi hành đạo được thì ở nhà
mà giữ lấy giới đó đặng tu. Nếu con nào buông ra thì quyền pháp không còn ngự.
(.
. .)
Mẹ
ban ơn lành mỗi con, ban bố quyền uy khắp trong Giáo Hội. Mẹ
mong sao mỗi con sống mãi ở lòng Mẹ để con được bình an và nhiều hạnh phúc.
Mẹ chứng lòng và ban ơn những con
có mặt nơi đây.
Mẹ thăng.
([1]) bí pháp 秘法 (secret method of
inner self-cultivation): Phương pháp tu luyện chỉ truyền riêng cho người được
tuyển chọn, không truyền dạy rộng rãi.
([2]) đơn khuê, đan khuê 丹圭 (elixir
of immortality; fig., inner self-cultivation practice): Thuốc tiên; nghĩa
bóng là tịnh luyện, công phu, thiền.
([4]) Cửu Nương 九娘: Tức là Cửu Vị Tiên Nương 九位仙娘, Cửu Vị Nữ Phật 九位女佛; chín vị Tiên Nương (cũng là Phật) nơi Diêu Trì Cung hầu cận
Ðức Phật Mẫu.
([6]) Câu này ý nói: Lay động mà chẳng động là phương pháp trở về gốc cội. – quy căn 歸根 (returning
to origin or root): Trở về gốc cội, nguồn gốc. Đạo Đức Kinh, Chương 16, chép: Quy
căn viết tĩnh... 歸根 曰靜... Trở về gốc cội gọi là tĩnh lặng. (Returning to
origin or root is called stillness). Theo Tiên Học Từ
Điển của Đới Nguyên Trường, mỗi lần vòng
tiểu chu thiên 小周天 trở về chỗ xuất phát thì gọi là quy căn. Dạy về chỗ diêu diêu bất động, có câu: Ngày đêm trau sửa tánh
tình / Giữ tâm thanh tịnh vẹn gìn đạo cao / Trong ngoài chẳng động đừng xao...
(Đại Thừa Chơn Giáo, bài Nhơn Vật Tiến Hóa)
([8]) giáng thăng 降升 (descending
and ascending): Xuống thấp và lên cao. Con người sanh vào cõi trần (hậu
thiên) đã đánh mất phần tiên thiên, nói ví von là Càn Khôn trở thành Ly Khảm (hào hai của hai quẻ đổi chỗ lẫn nhau). Hành
giả tu luyện (công phu, thiền) để biến đổi hậu thiên trở lại tiên thiên, tức là
làm cho Khảm Ly trở lại Khôn Càn (xem
Đại Thừa Chơn Giáo,
bài Nhơn Vật Tiến Hóa), cũng gọi là chiết Khảm điền Ly, để cho quẻ Khảm biến thành Khôn, quẻ Ly biến
thành Càn. Tiên Học Từ Điển của Đới Nguyên Trường giảng rằng
một điểm chơn âm trong cung Ly [hào hai, âm, vạch đứt] giáng xuống cung Khảm; một điểm chơn dương trong cung Khảm [hào hai,
dương, vạch liền] thăng lên cung Ly, khôi phục lại Càn Khôn; đây là phép quy căn phục mệnh 歸根復命. Giáng thăng vì vậy còn ám chỉ phép tu luyện (công phu,
thiền).
([9]) chơn như, chân như 真如 (tathāta, thusness,
suchness, the ultimate nature): Chơn như đồng nghĩa với Như Lai tạng 如來藏 (Tathāgata nature), Như Lai 如來 (tathāgata),
như như 如如, pháp thân 法身 (dharma body), Phật tánh 佛性 (Buddha nature), thực tướng 實相 (true form),
Thượng Đế tánh 上帝性 (God
nature), tự tánh 自性 (own nature)… Chơn như là cái tánh căn
bản và phổ quát mà tất cả chúng sanh đều có sẵn (the fundamental universal nature possessed by all the living).
([11]) Câu
này ý nói: Sống ở thế gian về phần vật chất thì vừa đủ no ấm mà thôi (để dành
sức khỏe và thời gian tu học). – nhị
nhứt (two and one): Hai và một, ý
nhắc tới thành ngữ một vừa hai phải (mức
độ vừa phải, vừa đủ: just enough).
([13]) Tam Nguơn 三元 (the
Third Era): Nguơn thứ ba, Hạ Nguơn. Theo Đại Thừa Chơn Giáo, bài Dưỡng
Sanh Tánh Mạng, Tam Nguơn gồm: a/ Thượng Nguơn (nguơn Tạo Hóa, gầy dựng càn
khôn vũ trụ), nguơn Thượng Đức 尚德
(sùng thượng đạo đức), nguơn Thánh Đức. b/ Trung Nguơn, nguơn Thượng Lực 尚德 (sùng thượng vũ lực, sức mạnh), nguơn
Tranh Đấu. c/ Hạ Nguơn, nguơn Điêu Tàn, mạt kiếp, tiêu diệt hết những xấu xa để
phục hưng đạo đức, nên cũng là nguơn Tái Tạo (Reconstructing Era).
([15]) mau tu học: Để khỏi bị loại bỏ trong
Hội Long Hoa, đủ điều kiện được chuyển sang nguơn Thánh Đức.
([18]) Câu
này ý nói: Dựa nương theo quyền thế và danh vọng để nhờ cậy thì tâm linh đành
chịu u tối.
([19]) lục căn 六根: Sáu căn (the six senses) gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ (eyes, ears, nose, tongue, body, mind).
([21]) Câu
này ý nói: Thầy đã chỉ dạy phép tu luyện rất quý báu. – thất bửu, thất bảo 七寶 (seven precious things): Bảy loại vật
quý, gồm vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, hổ phách, san hô (còn có cách liệt
kê khác hơn); nghĩa bóng là nói chung những món báu vật. – kim đơn, kim đan
金丹 (immortal remedy; fig., inner
self-cultivation method): Thuốc tiên giúp trường sanh bất tử; ám chỉ phương
pháp tu luyện thoát luân hồi sanh tử.
([22]) tiền
khiên 前牽: Nói tắt nợ tiền khiên (unpaid debt in
one’s former life). Tiền là trước; khiên là lôi kéo, vướng vít, ràng buộc,
liên lụy. Nợ tiền khiên là nợ do kiếp trước (former life) gây nghiệp xấu, qua kiếp này (this life) bị nó đòi và phải trả.
([23]) Câu
này ý nói: Đã vào cõi trần nguy hiểm (ví như vào trận địa bát quái) thì hãy
khéo biết tìm cách tu luyện để thoát ra. – bát
môn trận địa 八門陣地 (the eight-gated front): Mặt trận gồm tám
cửa (bát môn) bày theo bát quái mà
chỉ có cửa 8 là sống (生門 sinh môn, cung Cấn); bảy cửa kia là: 1/ Hưu 休 (dừng lại, cung
Khảm); 2/ Tử 死 (chết, cung Khôn); 3/ Thương 傷 (thương tích,
cung Chấn); 4/ Đỗ 杜 (chặn lại, cung Tốn); 5/ Trung ương, không có cửa; 6/ Khai
開 (nóng sôi, cung
Càn); 7/ Kinh 驚 (kinh sợ, cung Đoài); 9/ Cảnh 景 (cảnh ngộ, cung
Ly). Như vậy, lọt vào trận này thì nắm chắc bảy phần nguy hiểm, một phần sống
sót. Trận địa bát môn ám chỉ cõi trần với muôn hình vạn trạng cảnh giả cám dỗ khiến
cho con người điên đảo, khó thoát ra nổi.
([25]) hỗn nhứt danh 混一名 (the name of
amalgamation): Cái tên hợp nhứt. (Đạo huỳnh, tức đạo Cao Đài, là cái tên
hợp nhứt thể hiện qua tiêu ngữ Tam Giáo
quy nguyên, Ngũ Chi phục nhất.)
([26]) lễ tấn
tôn (tấn tôn chi lễ 進尊之禮: veneration offering ceremony): Lễ dâng lên lòng tôn kính, để bày tỏ
lòng tôn kính.
([32])
Khí Hải 氣海
(Qi Sea,
([37])
Liên
Đoàn Nữ Phái: Lập tại Trung Châu cuối tháng 10-1938 theo thánh
lịnh của Đức Mẹ Diêu Trì. Thành phần lãnh đạo gồm có: Chánh Hội Trưởng (tiền bối Lê Chơn Giác, tức cụ bà Lê Trí Hiển); Phó Hội Trưởng (tiền bối Lê Thị Tịnh, tức bà Xã Nho); Chánh Thơ Ký (tiền bối Trương Thị Ngọc Dung, tức bà Cửu Đô); Thủ Bổn (tiền bối Phan Thị Chuyển, tức bà Chánh Diệm, là thân mẫu Giáo Sư Nguyễn Quang Châu); Nghị Viên (tiền bối Nguyễn Thị Hiến, tức bà Trần Công Ban); Liên Giao (tiền bối Trần Thị Tuyết); Phụ Tá Phó Hội Trưởng (tiền bối Nguyễn Diêu Trinh, tức Thanh San, gốc Hội Thánh Minh
Chơn Đạo, và
tiền bối Võ Thị Yến). Cuối năm 1938, thành
lập được tám chi đoàn ở thánh tịnh Thanh Quang và bảy thánh thất là
([39]) ách nước tai trời (thiên tai thủy ách 天災水厄: calamities from the sky and the sea; fig.,
calamities in nature): Những thảm họa thiên nhiên như dông bão, sóng thần,
lũ lụt, v.v…
([40]) A Tỳ 阿毘 (avīcī): Cũng gọi Vô Gián Địa Ngục 無間地獄 (the Hell of Unintermitted Punishment), là nơi tội nhân bị trừng
phạt không hề gián đoạn và không có ngày được thoát khỏi tù.
([44]) Câu
này ý nói: Gần xa đều ôm ấp lý tưởng, suy tư về việc đạo. – tư duy 思惟 (thinking):
Suy nghĩ.
([45]) Câu
này ý nói: Lúc nào cũng một lòng một dạ, không nay vầy mai khác. – thị phi 是非 (right and wrong; praise and criticism).
Đúng và sai; khen chê.
([47]) trần lỗ 塵魯: Đồng nghĩa trần lậu 塵陋, không thanh cao, không
tốt đẹp. (Đức Mẹ giảng luôn nghĩa chữ trần
lỗ
khi nói xấu xa liền theo sau.)