Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

15. NÊN ĐẶT MÌNH TRONG PHÁP ĐẠO / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Canh Tý (1960)

 

15. NÊN ĐẶT MÌNH TRONG PHÁP ĐẠO

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 05-7 Canh Tý (Thứ Sáu 26-8-1960)

THI

HOÀNG Đạo ([1]) Lần Ba mở độ đời

NGỌC lành ([2]) dồi luyện lấy ai ơi

TRÁC tâm thánh khiết đương quyền pháp ([3])

GIÁNG giáng thăng thăng rõ máy Trời.

Chào chư Thiên ân, chức sắc, chức việc, chư quý đạo tâm nam nữ đàn tiền. Mừng ngày trung nguơn khánh hội.([4])

Chư đạo tâm thanh tịnh an vị.([5]) Giờ nay Bản Thánh nương cơ nhập đàn, để lời nhủ khuyên toàn đạo.

Mối tình đồng đạo từ lâu cùng những lúc vui khổ có nhau, đều do chí nhiệt thành quyết mạnh tiến trên đường sứ vụ.([6])

Hôm nay, nhìn lại nhân sinh thấy có phần yếu đuối trên no tu hành, lòng Bản Thánh lấy làm buồn. Dầu đã được nhập Thánh siêu phàm, cũng không sao dứt được tình riêng. Nhớ những ngày trong gia đình Truyn Giáo thượng hòa hạ mục,([7]) mặc dù cơ Trời luân chuyển, việc thế đổi dời. Biết vậy, nhưng làm sao cũng muốn cho nhau như ngọc lành không tì vít.([8])

BÀI

Nhìn cuộc thế như dòng ch rối

Trong Đạo nhà nhiều mi ngổn ngang

Biết ai tâm huyết luận bàn

Đ cùng chia sớt lo toan dựng gầy.

Nơi Trung Tông, Đạo Thầy điểm hóa

Nghiệp Trung Hưng, Thầy đã dẫn đầu

Giáo quyền thiết lập Trung Châu

Chỉnh tu nội bộ pháp mầu ban theo.

Thế mà ai, ai nào có biết

Đ lòng lo cương quyết với nhau

Nhuộm cho chân lý một màu

Tình thương lẽ sng dồi dào gần xa.

Nay đã tới Long Hoa Hội mở

Phật Thánh Tiên dâng sớ cầu xin

Lòng người vì cạn đức tin

Làm sao trông cậy nhận nhìn ơn Cha.

Thầy rộng lòng thứ tha chờ đợi

Đợi lòng người đổi mới ăn năn

Sng trong quyền pháp giáng thăng

Trông ngày phán đoán công bằng có tên.

Giờ lớn nh ta nên nghe lịnh

Dưới trên đều bình tĩnh gẫm coi

Ơn nào được Thánh dẫn soi

Phước nào được giữ gậy còi ([9]) trong tay?

Còi gậy để phải thay người khác ([10])

Thì hồng ân lệch lạc làm sao

Lời nào ta đã ước giao

Rửa tay thế sự quyết vào huyền quan.([11])

Dứt các mối tệ đoan, ác niệm ([12])

Tạo tình thương mà kiến huyền cơ ([13])

Cùng nhau gióng trống phất cờ

Tiền phong cải tạo, mở cơ độ đời.

(. . .)

TIẾP ĐIỂN

THI

NAM bang được chọn dựng nền Tiên

CỰC khổ rồi đây được có quyền

TIÊN Phật muốn thành phiền não đoạn ([14])

ÔNG ban bí tích để thăng thiên.([15])

Bần Đạo chào chư Thiên ân, chào liệt quý đạo tâm nam nữ.

Bần Đạo lần đầu đến với Hội Thánh Truyền Giáo, cũng là một sự hân hạnh trong cơ duyên dìu dắt giữa quý hiền và Bần Đạo.

Nơi đây từ tiếp cơ lập pháp,([16]) quyền tối cao đều ở Pháp Chánh Truyền. Về phần lãnh đạo nội trị, ngoại giao ở nơi tay Lý Bạch Đại Tiên xây nền tân pháp. Nhưng cơ phổ độ rộng mở, quần Thánh được lập công, lâm cơ giáo hóa dìu dắt nhơn sanh. Bần Đạo đến đây cũng một lẽ đó. Nghĩa là từ nay chư Tiên sẽ mượn các cơ đàn để thí pháp,([17]) dìu dắt môn sanh, thì Bần Đạo cũng nhắc lại để chư hiền được cảm thông cơ tận độ.

Cơ tận độ Lần Ba, Thầy cho liệt Thánh quần Tiên lâm phàm phổ hóa ([18]) đưa người trở lại nẻo lành, điểm đạo khai đàn ([19]) cho khách hữu duyên ([20]) về nơi quyền pháp, nên các nơi trong đạo ngoài đời mà có lòng cầu thỉnh thì Tiên Phật đều đến dạy bảo.

Nhưng với quyền pháp Trung Tông không phải thế. Nghĩa là nơi đây đắc sứ mạng trung hưng, chỉnh tu ([21]) nội bộ, làm nòng cốt cho quyền pháp sau này mà có bài bố ân oai,([22]) xây dựng cơ cấu, sắp xếp hàng ngũ cửu phẩm tam thừa,([23]) truy ân các Thánh, thành lập tổ đình,([24]) mưu lấy sự tương lai hy hữu. Nhưng đức non tài thiếu, gặp cơ khảo thí mà sứ mạng lớn lao, không thể một ít người đương ([25]) nổi. Nếu nội bộ bất hòa thì con đường ấy phải chờ một thời gian tu học, hầu xứng đáng và cũng đủ điều kiện tiến hành.

Ngặt vì thời giờ quá gấp rút mà nội tình chi phái mỗi ngày lạc hướng càng xa. Nếu thời thế ([26]) xảy đến cho loài người mà trong đạo thiếu quyền pháp, làm sao an ngự thánh địa? Nghĩa là mọi người tu, mọi người có đạo, tu hay có đạo là một việc, việc ấy là phước cho người cho đời, nhưng chưa đủ an bài, che chở cho loài người được, mà loài người cần có một tổ chức Giáo Hội đủ quyền pháp ân oai. Nơi ấy làm tòa ngự trị của Thầy, sứ mạng được về cho thiên hạ, nên Hội Thánh là cái cửa ban phát quyền hành, mệnh lệnh của Trời.

Hội Thánh làm cái cửa thì mọi nơi ở Trời phát xuất ra đó, loài người nương đó mà được nghe ngóng ý Trời, tựa vào đó mà nhập vào thiên môn tịnh cảnh, nên quyền pháp Hội Thánh trở nên trọng đại. Hội Thánh là cái lái,([27]) thế giới là con thuyền; nhơn loại nương sống ở thuyền, hướng đi của nhơn loại là cái lái vậy.

Vậy từ nay Hội Thánh có một con đường là phải tu, mọi người lo tu, người người đều tu, lớn nhỏ ân cần chiều sớm công phu, bòn chắt công quả, xây dựng một nền công đức chung để tiếp tục hoàn thành sứ mạng trung hưng chánh pháp.

Bây giờ nói tu, thì người Thiên ân, kẻ đạo hữu cũng không biết tu làm sao nữa. Tu rồi, ai cũng ăn chay giữ giới, ai cũng cúng sám quỳ hương; hơn nữa, người Thiên ân thì xuất gia ly tục là tu rồi. Giờ còn tu sao nữa?

Phải vậy, tu là thế, nhưng ở đời không phải tu bao nhiêu đó mà an thiên hạ, được siêu phàm.

Tu là sửa, sửa mọi nết xấu tật hư, nhưng cái gốc của nó cần được gia công trừ khử, nên mọi người nhìn lại sự thất bại của mình, của đoàn thể mình, của chi phái bạn, nói chung các tổ chức trên mặt địa cầu đều bởi cơ tâm ([28]) làm xáo đổ cả trật tự. Cơ tâm đã manh khởi lên rồi thì dầu có khôn ngoan đến mấy cũng không còn thuần chất thánh tâm nữa. Xây dựng cơ tâm được mạnh lành trọn vẹn và phải đem nó trở về nơi trong, giữ nó cho còn thanh tịnh.([29]) Điều ấy ở phần pháp môn.

Bần Đạo khuyên nhắc chư hiền từ đây nên đặt mình trong pháp đạo,([30]) nghĩa là đặt mình trong thanh tịnh để cầu huyền cơ. Mọi việc Hội Thánh thì lo giữ gìn. Một là guồng máy, trên Thiên ân lành mạnh vui đẹp, dưới hàng ngũ nhơn sanh được yên ổn cậy tin. [Hai là] chưa có điều kiện tiến lên thì chuẩn bị cho mùa xây dựng sắp tới, nghĩa là Thiên ân quyền pháp đâu đấy đường hoàng, tôn ty trật tự, làm gương mẫu cho người dưới thật lòng tu học giải thoát.

Với đạo hữu, nên nâng đỡ họ bằng mọi mặt quyền pháp, nghĩa là làm cho họ nể mà yêu, nể mà tin, nể mà kính, nể mà sửa được mình, nể mà ăn ở giữa nhau có tình êm ấm. Nên người Thiên ân đủ quyền pháp rồi, không cần nói họ mới nghe. Nên lấy Thiên ân làm nòng cốt. Nếu Thiên ân nào không đương nổi quyền pháp, thì ngưng quyền bãi chức để cho Giáo Hội mạnh lành. Đừng nể, đừng vị mà chơn truyền phải bởi đó trở nên thất bát.([31])

Về đạo hữu, có một lòng tin cũng chưa đủ bảo đảm, mà lòng còn phải thường tư duy ([32]) việc làm lành lánh dữ. Có làm được lành thì ma chướng mới tiêu, nghiệt ác mới đoạn. Làm lành thì lòng tham sân được dứt. Có làm lành mới bứng được cái gốc sinh tử luân hồi. Làm được là xây dựng cho báo thân hậu nhựt.([33]) Nên đạo hữu ráng lo lập công quả để cho nhẹ bớt tiền khiên.([34]) Lập công quả để làm bùa hộ mạng, làm pháp ẩn thân trong buổi đời tên bay đạn lạc.

Mũi Thiên oai ([35]) đã đến không chừa một ai, nếu kẻ đó chẳng chịu làm lành. Ngày khói lửa bốc lên, nếu nghiệp chướng còn thì tránh sao khỏi cháy. Tai nạn chập chồng ghê sợ, nào hồng thủy,([36]) nào đất sập, nào ôn hoàng,([37]) đủ trò biểu diễn những màn lạ lùng. Ráng lo tu, tu lẹ, tu mau đi đạo hữu.

(. . .)

Về giáo hữu trở lên, xây dựng một nề nếp sống trong quyền pháp. Vị nào còn nặng gia đình ân ái thì nên gởi chức vị lại ([38]) cho quyền pháp Hội Thánh được linh.([39])

Còn từ lễ sanh trở xuống, cố gắng xây dựng được trổi hơn người tín đồ, nghĩa là chánh phó trị sự, thông sự, lễ sanh không được một ai kém thua đạo hữu. Nếu đem so sánh giữa một người Thiên ân và một nhóm đạo hữu nơi đó, mà vị Thiên ân chức sắc đó kém hơn thì xin ngưng quyền chờ ngày xứng đáng phục vị. Thà nơi địa hạt đó thiếu người, còn hơn có người mà để nhơ danh Giáo Hội.

(. . .)

Cuộc vận động thống nhất nền đạo, Hội Thánh ta cũng có một trọng nhiệm ([40]) phải lo. Ngày liên kết nhau cũng không còn xa mấy. Thời thế xoay, muôn việc đều xoay. Hội Thánh lập, mọi người được lập.([41])

(. . .)

Thôi, Bần Đạo ban ơn cho Hội Thánh. Ban ơn cho chư chức sắc, chức việc thành công trên nguyện lực ([42]) và sứ mạng được hoàn tất. Ban ơn cho chư đạo tâm nam nữ.

Bần Đạo chào.



([1]) Hoàng Đạo: Hoàng (great, grand) là to tát, đồng nghĩa đại . Hoàng Đạo 皇道 (the Great Way) tức là Đại Đạo 大道. Xem Phụ Đính 1 cuối bài thành giáo này.

([2]) ngọc lành: Như ngọc quý (bảo ngọc 寶玉: precious jade): 1/ Phần tốt đẹp sẵn có nơi con người do Trời ban cho (thiên lương 天良, lương tâm 良心: conscience). – 2/ Sứ mạng do Trời ban trao (Thiên ân sứ mạng 天恩使命: mission bestowed by Heaven’s favour).

([3]) trác tâm thánh khiết 琢心聖潔 (training mind into holiness and purity): Gọt giũa tâm cho trở nên trong sạch và thánh thiện. – đương quyền pháp (đương vi pháp quyền 當為法權: under-taking the dharma power): Nhận lãnh quyền pháp.

([4]) trung nguơn khánh hội 中元慶會 (celebration on 15th day of 7th lunar month): Lễ rằm tháng Bảy.

([5]) an vị 安位 (taking a seat): Ngồi, an tọa 安坐.

([6]) sứ vụ 使務 (mission affair): Việc làm (vụ) để thực hiện sứ mạng 使命 (nhiệm vụ được giao phó). – trên đường sứ vụ (on the way to carry out mission affairs): Trên đường thi hành các nhiệm vụ được giao phó.

([7]) thượng hòa hạ mục 上和下睦 (getting along well between the upper and the lower): Trên hòa dưới thuận; hòa thuận giữa mọi người lớn nhỏ trong một tập thể.

([8]) tì vít (hà tì 瑕疵: flaw): Tì vết, vết bẩn, vết xấu.

([9]) còi, gậy (sáo tử dữ trượng 哨子與杖; whistle and crook; fig., the dharma power conferred to a dignitary): Người chăn cừu dùng còi để sai khiến chó canh giữ cừu (sheepdogs), dùng gậy để lùa cừu và đánh đuổi thú dữ (predators) tới bắt cừu; nghĩa bóng là quyền pháp trao cho một chức sắc.

([10]) Câu này ý nói: Nếu phải trao còi gậy cho người khác vì chức sắc đương nhiệm không tròn phận sự được giao.

([11]) huyền quan 玄關 (mysterious entrance; fig., the Dao gate): Cửa vào huyền diệu; nghĩa bóng là cửa Đạo.

([12]) tệ đoan 弊端 (harm or detriment): Điều xấu, có hại. – ác niệm 惡念 (evil idea): Ý nghĩ xấu xa, ý niệm độc ác.

([13]) kiến huyền cơ: 1/ 玄機 (seeing mysterious principles): Thấy được cơ mầu (Thiên ý 天意, thiên cơ 天機, những nguyên lý mầu nhiệm). 2/ 玄基 (establishing mysterious foundation): Xây dựng nền móng huyền diệu, tức là xây dựng nền tảng đạo.

([14]) phiền não 煩惱 (afflictions or distress; passions and delusion or illusions): Phiền não là từ gọi chung những gì làm cho tâm hồn rối loạn, buồn sầu, khổ não. Bất kỳ thứ gì tác động đến tâm hồn, làm trở ngại sự tu tập để đạt được tâm thanh tịnh hay sự giác ngộ đều gọi là phiền não. Vì bị mê lầm (ảo tưởng hay huyễn tưởng) chi phối, vì muốn thỏa mãn ham muốn mà tâm hồn bị phiền não. Do đó, nếu căn cứ theo mặt chữ thì dịch phiền não là afflictions, distress; căn cứ theo nghĩa nhà Phật thì dịch phiền não là passions and delusion (illusions). Trái nghĩa với phiền não là thanh tịnh 清淨. – đoạn (cutting off): Cắt đứt.

([15]) bí tích 祕錫: Bí pháp 秘法 (secret method of inner self-cultivation): Phương pháp tu luyện chỉ truyền riêng cho người được tuyển chọn, không truyền dạy rộng rãi.thăng thiên 升天 (ascending to heaven): 1/ Sau khi chết, linh hồn được lên cõi trời, không phải sa vào địa ngục. 2/ Hành giả (người tu thiền) đắc đạo tại thế gian có thể xuất thần ra khỏi xác, bay đến một nơi khác, như tiền khai Ngô Văn Chiêu (1878-1932). Giờ Ngọ ngày 05-3 Canh Ngọ (Thứ Năm 03-4-1930), ngài Ngô ngồi tịnh ở trên lầu ngôi nhà số 110 đại lộ Bonard, Sài Gòn (nay là Lê Lợi); rồi ngài xuất thần cùng với Đại Tiên Vân Trung Tử đi tới đàn Hiệp Minh (Cái Khế, Cần Thơ). Hai vị cùng giáng đàn, ban chung một bài thất ngôn bát cú, với câu mở đầu là: Xuân giao phưởng phất hạ phùng nhiên… – Đức Nam Cực Tiên Ông 南極仙翁 (Immortal of the South Pole): Cũng là Thọ Tinh lão Nhân 壽星老人 (Immortal of Longevity), người Việt gọi là Ông Thọ.

([16]) tiếp cơ lập pháp 接乩立法 (receiving holy messages to make law): Tiếp nhận thánh giáo qua cơ bút để làm thành luật đạo.

([17]) thí pháp 施法 (bestowing dharma): Ban trao lời dạy đạo.

([18]) phổ hóa (widespreadly converting people to self-cultivation): Hóa độ 化度 rộng khắp để giúp chúng sanh tu hành.

([19]) điểm đạo khai đàn (khai đàn điểm đạo 開壇點道: opening a seance to initiate sb into the religion): Mở một đàn cơ để cho ai nhập môn vào đạo.

([20]) hữu duyên 有緣 (having a predestined bond with): Có mối quan hệ tiền định với đạo, nên có cơ hội học đạo, tu hành.

([21]) chỉnh tu 整修 (rebuilding, renovating): Sửa chữa.

([22]) bài bố 擺布, 排布 (arranging): Sắp đặt. – ân oai (grace and power; favour and authority): Ân uy 恩威, ơn huệ và quyền uy.

([23]) cửu phẩm tam thừa 九品三乘 (the nine grades of the three vehicles): Xem Phụ Đính 2 cuối bài thánh giáo này.

([24]) tổ đình 祖庭 (ancestral temple): Thánh sở đầu tiên mà các vị khai sáng nền tôn giáo đã quy tụ và hành đạo.

([25]) đương (assuming, undertaking): Gánh vác.

([26]) thời thế 時勢: Ở đây nên hiểu là thời thế biến chuyển khốc liệt (in case of changes in fatal violence).

([27]) cái lái (đà : rudder): Bánh lái.

([28]) cơ tâm 機心 (mind given to deception or trickery): Lòng dạ trở thành gian trá, lọc lừa.

([29]) thanh tịnh 清淨 (purified and tranquil): Không phiền não (tham dục, mê lầm), không ô nhiễm, không chấp trước, không dính mắc vào bất cứ điều gì.

([30]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([31]) thất bát (failing, losing): Thất bại, mất mát.

([32]) tư duy 思惟 (thinking): Suy nghĩ.

([33]) báo thân hậu nhựt (hậu nhật báo thân 後日報身: reward body in the future): Cái thân thể tốt đẹp trong kiếp sau do kiếp này biết làm lành lánh dữ.

([34]) tiền khiên 前牽: Nói đủ là nợ tiền khiên (unpaid debt in one’s former life). Tiền là trước; khiên là lôi kéo, vướng vít, ràng buộc, liên lụy. Nợ tiền khiên là nợ do kiếp trước (former life) gây nghiệp xấu, qua kiếp này (this life) bị nó đòi và phải trả.

([35]) mũi Thiên oai: Ý nói mũi tên, mũi đạn do luật Trời báo ứng.

([36]) hồng thủy 洪水 (flood): Lũ lụt.

([37]) ôn (epidemic): Bệnh dịch. – hoàng (hoàng trùng 蝗蟲: locust, grasshopper): Loài cào cào, châu chấu ăn hại lúa.

([38]) gởi chức vị lại (resigning): Từ chức 辭職, từ nhiệm 辭任, thôi một chức vụ, trả lại một nhiệm vụ.

([39]) linh (effective): Hiệu quả, hữu hiệu, có tác dụng.

([40]) trọng nhiệm 重任 (heavy responsibility): Trách nhiệm nặng nề.

([41]) lập (stable): Vững vàng.

([42]) nguyện lực 願力 (vow power): Sức mạnh của lời thề nguyền. Người tu nhờ lập nguyện, phát nguyện mà thành đạo. Người xưa nói: Vô nguyện bất thành Phật dữ Tiên; Phật Tiên vô nguyện bất điều hiền. 無愿不成佛與仙; 佛仙無愿不調賢. (Người không lập nguyện chẳng thành Phật Tiên; Phật Tiên chẳng độ người không lập nguyện.)


HUỆ KHẢI chú thích - LÊ ANH MINH hiệu đính