* Hiền tỷ Đào
Thị Khiêm (thị
xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai). Thư ngày 03-7-2016:
Văn Uyển tập Hanh (số 18) năm Bính Thân, trang
7-9 có bài thánh thi MƯỜI KHUYÊN của Đức Lý, dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa, ngày
28-11 Kỷ Hợi (Chủ Nhật 27-12-1959).
Văn Uyển tập Nguyên (số 1) năm Nhâm Thìn, trang 19-22 có bài thánh thi MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM của Thầy, trích trong Sấm Giảng Huỳnh Đạo, trang 18-21, của Hội Thánh Nhị Giang, Tòa Thánh Bửu Sơn, núi Cấm, Tri Tôn, Châu Đốc (xuất bản trước 1975).
Đạo Cao Đài vẫn xem mười hai là số huyền diệu của Thầy; tại sao hai bài thánh thi ấy không dùng số mười hai mà lại dùng số mười?
Văn Uyển tập Nguyên (số 1) năm Nhâm Thìn, trang 19-22 có bài thánh thi MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM của Thầy, trích trong Sấm Giảng Huỳnh Đạo, trang 18-21, của Hội Thánh Nhị Giang, Tòa Thánh Bửu Sơn, núi Cấm, Tri Tôn, Châu Đốc (xuất bản trước 1975).
Đạo Cao Đài vẫn xem mười hai là số huyền diệu của Thầy; tại sao hai bài thánh thi ấy không dùng số mười hai mà lại dùng số mười?
Huệ Khải: Thưa hiền tỷ, số mười không chỉ là một số đếm (mười ngày, mười năm...) mà còn được dùng với ý nghĩa đủ đầy tất cả, hoàn toàn trọn vẹn, hoàn hảo (perfect). Chữ Hán nói thập
thành 十成 , thập phần
十分 , thập toàn thập mỹ 十全十美 đều nghĩa là vẹn đủ cả
mười, trọn vẹn, hoàn hảo, mười phân
vẹn mười. Hoa khai dĩ thập phần 花開已十分 nghĩa là hoa đã nở hết cả rồi, nở không còn búp nào nữa.
Do đó, khi tả nhan sắc hai chị em Thúy Kiều và, Nguyễn Du (1766– 1820) bảo: Mai cốt cách tuyết tinh thần / Mỗi người một
vẻ mười phân vẹn mười.
Vậy, Ơn Trên dạy mười khuyên, có nghĩa đó là những khuôn vàng thước ngọc hoàn hảo, trọn vẹn để giúp chúng ta tu học
và hành đạo kết quả.
Ngoài hai trường hợp như hiền tỷ đã nêu, sau đây
là ba trường hợp khác, trích trong Thánh
Truyền Trung Hưng (của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài):
1. Tại thánh thất Minh Trung, Thứ Bảy 10-01-1959
(02-12 Mậu Tuất), Đại Đức Ngô Tiên
(Ngô Minh Chiêu) dạy:
MỘT là tu cho người
trông cậy
HAI là làm đời thấy kỉnh tin
Thân ta cẩn thận giữ gìn
Làm gương hướng đạo tỏ tình
trắng trong
BA nên gắng đề phòng nội khảo
BỐN luôn luôn hoài bão thanh
danh
Công tư cân nhắc cho rành
Phải là chí kỉnh chí thành ưu tư
NĂM cải tệ (1) sửa hư chừa lỗi
SÁU xét mình sám hối thường
xuyên
Thiết tha bảo vệ pháp quyền
Hy sinh thân phận bảo giềng
Thiên ân
BẢY nội bộ tinh thần tinh tiến
TÁM ngoại tình sự kiện đắn đo
Làm sao trọn vẹn thân trò
Thân trò là Đạo, Đạo trò là danh
CHÍN phải lo tu
thành tâm pháp
MƯỜI khuyên nhau
đóng góp tình thương
Mối tình đồng đạo là phương đại đồng.
2. Tại thánh thất Tịnh
Quang, Thứ Năm 15-01-1959 (07-12 Mậu Tuất), Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
MỘT khuyên con kính
thờ Đạo cả
HAI khuyên con xa bả trần tình
BA khuyên sớm tối sửa mình
BỐN khuyên quy giới vẹn gìn mà
tu
NĂM khuyên phải công phu, công
quả
SÁU khuyên thân hỷ xả độ mình
BẢY khuyên chí kỉnh chí thành
TÁM khuyên lễ độ nên hình trò
Tiên
CHÍN khuyên giữ vẹn pháp quyền
MƯỜI khuyên
đừng để Mẹ phiền không nên.
3. Tại Trung Hưng Bửu Tòa, Thứ Ba 24-02-1959 (17-01 Kỷ Hợi), Đức Đông Phương Lão Tổ dạy:
MỘT khuyên nhớ giữ
gìn trung chính
HAI khuyên tuân mệnh lệnh giáo
quyền
Lúc nào lòng cũng Thiêng Liêng
Thông công nối lại bảo giềng độ sanh.
BA khuyên được công bình đúng đắn
BỐN khuyên lòng ngay thẳng hòa thân
Thương đời sớm tối ân cần
Hòa mình trong đám thiện dân dắt dìu.
NĂM khuyên giữ Thiên điều luật pháp
SÁU khuyên cho duy nhứt thánh hình
Nhớ câu Bồ Tát hữu tình
Chan đều sức sống đức tin kết liền.
BẢY khuyên phải bảo yên hàng ngũ
TÁM khuyên thường huấn dụ nhơn sanh
Xây nên thánh thể mạnh lành
Viếng thăm an ủi tình hình suốt thông.
CHÍN khuyên lo đại đồng sơ bộ
MƯỜI khuyên chung củng cố nội tình
Trước là xây dựng cho mình
Sau là hàn gắn bất bình hỏng hư.