Thứ Hai, 6 tháng 5, 2019

lâm thâm uyên, lý bạc băng


Như lý bạc băng



* Hiền hữu Nguyễn Thế Tuấn (TT Trung Hải, HT Truyền Giáo Cao Đài, Đà Nẵng). Điện thư ngày 29-12-2016:
Trong Thánh Truyền Trung Hưng, phần Giáo Pháp, tập II, ở trang 173, in bài thánh giáo do Đức Thái Bạch Kim Tinh dạy tại Tịnh Đường, vào Tý thời, ngày 24-12 Giáp Thìn (Thứ Ba 26-01-1965), có đoạn như sau:
“Sở dĩ sự sám hối không thành là tại lòng người còn đảo điên xao lãng, chưa hết dạ chí thành. Hối nghĩa là sao? Là nguyện từ nay bao nhiêu những lỗi cũ không còn vấp phạm nữa, phải luôn luôn tư thiết ([1]) với tội lỗi của mình. Như Lâm Thâm Huyên, Lý Bạc Băng, phải lo sợ cái ngày chết nó kề một bên.”
Kính nhờ Văn Uyển cho biết qua lai lịch hai nhân vật Lâm Thâm Huyên, Lý Bạc Băng.
Huệ Khải: Thưa hiền hữu, câu chót đoạn thánh giáo đó bị bộ phận điển ký chấm câu sai hai chỗ, viết sai chánh tả một chữ, và viết hoa sai hết tám chữ.
Các chỗ sai ấy : “... phải luôn luôn tư thiết với tội lỗi của mình. NLâm Thâm Huyên, Lý Bạc Băng, phải lo sợ cái ngày chết nó kề một bên.”
Theo tôi hiểu, hãy sửa lại là: “... phải luôn luôn tư thiết với tội lỗi của mình, nlâm thâm uyên, [như] lý bạc băng. Phải lo sợ cái ngày chết nó kề một bên.”
Chữ HUYÊN và UYÊN đồng bào miền Trung và miền Nam phát âm giống như nhau, do đó điển ký miền Trung nghe đồng tử miền Trung xuất khẩu (hay độc giả miền Trung đọc) rồi viết nhầm. Đồng bào miền Bắc phát âm hai chữ này khác nhau hoàn toàn. Điển ký lại còn viết hoa sáu chữ Lâm Thâm Huyên, Lý Bạc Băng, làm bà con Cao Đài mình tưởng lầm là danh tánh hai người, của ông (hay bà) họ Lâm tên Huyên, và họ Lý tên Băng.
Trong Luận Ngữ (Thái Bá 8:3), có nhắc tới câu “Chiến chiến căng căng như lâm thâm uyên, như lý bạc băng. 戰戰兢兢, 如臨深淵, 如履薄冰.” trích trong Kinh Thi.
Chiến là run rẩy vì sợ hãi. Căng (hay căng căng) là kiêng dè, cẩn thận. Chiến căng (chiến chiến căng căng) là sợ run lập cập.
Câu Kinh Thi dẫn trong chương Thái Bá nói trên được Nguyễn Hiến Lê dịch như sau: “Phải nơm nớp chăm chăm, như đi xuống vực sâu, như đi trên lớp băng mỏng.”
Tóm lại, trong thánh giáo năm xưa tại Tịnh Đường, Đức Lý Thái Bạch đã nhắc lại Kinh Thi, nhắc lại Luận Ngữ.


([1]) tư thiết 思切: Đau đáu nghĩ tới (to think, to consider, to believe, to think of ). Từ tư thiết thấy trong từ điển Kanji của Nhật, chưa thấy Trung Quốc dùng. (Lê Anh Minh chú)