Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2019

BỔN PHẬN TÍN ĐỒ


Đức CAO BẢO VĂN QUÂN (Cao Hữu Chí, 1904-1953)


BỔN PHẬN TÍN ĐỒ
Trung Hưng Bửu Tòa
30-01 Đinh Dậu (Thứ Sáu 01-3-1957)
CAO thượng nhờ tu lập vị mình
BẢO tồn quyền pháp được tinh minh
VĂN ngôn giáo hóa khai chơn đạo
QUÂN tử làm cho rạng thánh hình.
Chào chư Thiên ân, chư chức vụ cùng toàn thể đạo tâm nam nữ. Nghiêm đàn. Xin mời an tọa.
(…) Chúng ta có trọng trách lớn lao, nên Tiểu Thánh nêu năm chữ là phải trở về cùng nhiệm vụ.
Nhiệm vụ của mọi người ai cũng có hai phần: một phần tu kỷ, một phần độ tha. Hai phần mà một, một phần mà hai, như gia đình thì người con phải tu thân, tề gia. Quốc gia thì người dân phải cứu nước, dựng nước. Về tôn giáo người tín đồ phải giữ đạo, truyền đạo.
Người đạo là người phải thế nào? Là làm tròn cái bổn phận của người tín đồ đối với Thầy, với bạn.
Với bạn, ta phải tín, thân, hòa, ái, làm cho giữa nhau có mối tương quan. Bạn nhờ ta mà nên, ta nhờ bạn mà thành, nương nhau mà tiến, mà tu, mà học, mà sửa chữa tánh tình.
Với Thầy, ta trọn tin trọn kính, đem thân trong sạch nhờ cậy nơi quyền năng Thầy mà thắng tất cả pháp giới ma lực, nhờ đức tin làm cho giữa ta và các Đấng thiêng liêng gắn chặt. Hằng giao cảm, nên thân tâm được gội rửa điển lành, ngày một trở nên thanh tịnh.
Thầy và bạn là hai yếu tố quan trọng tương liên. Giữa hai phần đó còn một phần thứ yếu là pháp luật để nối liền cho đôi bên suốt thông, không rối loạn. Pháp là đường lối dẫn dắt, phương pháp hợp thành đôi bên, người tu phải quy y Tam Bảo là thế.
Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Phật là thầy, Tăng là bạn, Pháp là tổ chức để đưa rước chúng sanh huờn nguyên bản bổn, cũng là Hội Thánh. Có quy y Tam Bảo bên ngoài cùng với Thầy, với Hội Thánh, với nhơn sanh thì thân nầy mới bảo đảm, mới chế ngự được phàm phu tình thức, mới giữ vững giá phẩm con người, mới mong đạt cơ tận thức.
Bên ngoài được rồi thì đồng thời bên trong của tâm ta cũng được Tam Bửu là Tinh, Khí, Thần mãn túc. Tinh mãn không dâm dục. Khí mãn không đói rét. Thần mãn không mê nhọc, tự khắc huân kết kim đơn. Nên về phương luyện đạo nhiều người tu, ít người đạt đạo, là vì bên ngoài chưa tròn xứng với nhiệm vụ, không quy y Tam Bảo của luật pháp ấn định, rồi cầu kỳ nơi thâm viễn mà xa con đường Trung Đạo nên lạc vào bàng môn ngoại giáo.
Tiểu Thánh khuyên cùng toàn đạo, muốn tu cho đắc đạo thì phải thương Thầy mến bạn, lấy pháp luật làm phương hướng giữ đạo sửa mình, để cho khế đồng tương ngộ, hợp với người thuận với Trời. Bằng bỏ pháp luật đi thì thân bị hèn nhục, tâm bị hôn mê, linh căn đọa lạc. Với người, họ chán ghét ruồng bỏ; với Trời thì bị từ khước quở phạt. Vì pháp luật là quy tắc để làm Người, làm Tiên, làm Phật, thì phải giữ lấy pháp luật làm căn bản.
Đã nói pháp luật là quy tắc làm công cụ chế tạo phàm phu nên thánh đức, tội ác hóa phước duyên, mê ngu ra xán lạn, thì sao lại lìa bỏ nó được. Ví như muốn có cơm thì phải nấu; nấu cần phải có củi lửa, nước, gạo, và nồi. Thét lửa cho sôi, sôi rồi bớt lửa. Nếu còn đun đốt thì hư cháy, mà nôn nả thì sống sít, nên quy tắc phải có chừng độ. Nói tóm lại là muốn cho thành công phải y hành luật pháp quy tắc.
Phần giữ đạo đã được căn bản, thì hàng ngũ mới vững chắc, cơ sở mới bền lâu, phương danh được rạng rỡ, thế đạo được to lớn mạnh mẽ, nội bộ uy nghi, tình thương chan chứa, sức sống phân đều. Kẻ nầy có bổn phận với người nọ, người nọ có bổn phận với người kia.
Vì thương nhau mà lo cho nhau về phần xác cũng như phần hồn, không nỡ lòng để nhau sa lạc. Nên một điều lầm lỗi bằng lời nói, bằng việc làm, bằng dung dáng, đã trông vào thấy có phần tai hại thì cùng nhau xúm lo sửa chữa, bảo nhau nên thôi, khuyên nhau nên bỏ, chỉ nhau nên tránh, nói nhau nên chừa, cản nhau nên thối bước.
Vì thương nhau mà không ngần ngại, thương nhau mới xây dựng giúp đỡ cho nhau. Lòng thương nó phát ra bằng cử chỉ, bằng lời nói, là các pháp môn cứu người. Người tiếp thâu vào lòng thấy có phần hối cải mà cảm ngộ được lẽ đạo. Nên người có lỗi họ rất vui sướng bằng lòng. Vui và mau nhận lỗi là vì cái tình thương chân thật của bên kia nó bắn xạ vào tâm linh một lằn điển quang mát mẻ, vẹt cả u ám mê lầm.
Nếu kẻ kia không phải vì lòng thương yêu mà nói, mà cản ngăn thì thái độ ấy đối với người phạm lỗi không thành hiệu lực, mà còn gây lòng phản trái là khác. Vì vậy pháp môn cứu người độ đời cần phải thật tâm không môi miếng. Lòng thương kia nó chan chứa mà hòa lẫn trong khối đạo tâm. Nó là một bờ tường kiên cố để ngăn ngừa sự vô minh tội lỗi. Bởi vậy người cha sở dĩ thương con không muốn cho con hư, nên lúc nhỏ hay coi chừng, lúc lớn hay nhắc nhở là cố xây dựng cho nên người, đẹp danh tốt phận. Vì lẽ chung và tinh thần tiến bộ thì tự nhau xây dựng cho nhau, có cần gì người cầm pháp luật răn he sửa trị.
Vì trình độ của đạo hữu còn kém, nên phần đông thấy lỗi của bạn lại che giấu đi, gọi là ơn và thương mà khỏa lấp, không ngờ đó là giết bạn bằng cách âm thầm.([1]) Cũng có người thấy lỗi của bạn lại cao rao bàn tán xầm xì, làm cho người có lỗi càng lỗi thêm. Người thấy lỗi đã không sửa được lỗi mà làm cho lỗi càng to, và gieo rải lỗi ấy cho chung quanh mọi người cùng bị lỗi thành ra cả đám.
Ôi! Người đó đã gây biết bao ác hại cho đạo, ví như lửa một nhóm không tưới tắt, rồi lại nhen nhúm cho to, đem mồi đốt cùng các chỗ, cho cháy to lan rộng. Vì vậy Tiểu Thánh khuyên người giữ đạo nên dè dặt, tiểu tâm,([2]) không tạo được lành thì đừng gây ác. Phần giữ đạo mà hàng ngũ giác ngộ được pháp luật thì phần truyền đạo rất dễ dàng, cũng như cái thùng lành, cái gàu có nhỏ, múc lên cũng chứa được, nên phần nội bộ rất quan trọng.
Mỗi cá nhân biết quý trọng lấy phần tâm, thấy được giá trị cái thiên chức của mình, thì cố gắng dồi luyện tính tình, chế kềm ý dục, làm tròn bổn phận thiêng liêng, để được xứng danh một tín đồ của bảng hồng danh nơi Thiên vị. Cái danh vị tín đồ của Chí Tôn không dễ ai xưng cũng được. Người có thiện duyên phúc đức mới gặp Tam Kỳ đại xá, làm một đệ tử của Thầy thì làm sao cho xứng đáng. Đã biết cái giá trị kia muôn năm khó gặp, thì lo khép mình vào trong khuôn phép đạo đức, để được chóng thành một môn đệ xứng đáng, hầu thọ lấy quyền pháp tối linh để nâng cao phẩm vị con người. Người được ân phước như thế mới hầu ra giúp đời, cứu người mà bòn chắt công hạnh, xây nên lầu đài nơi cõi Tiên Bồng.
Cái nhiệm vụ làm người môn đệ ta nên cố gắng để được tròn xứng với cái bổn phận. Hằng ngày tu tiến thân tâm, làm cho sáng danh của mình của Đạo, để rồi cứu người cứu mình, cứu cả đời đã mang tội ác, tạo nên một cảnh hòa bình hạnh phúc cho ngày mai. Sứ mạng đặt trên lời nói, ý nghĩ, việc làm; mọi cử động đều làm khuôn phép mẫu mực cho con, cho nhà, cho người, cho nước. Được thế mới hầu cứu độ chúng sanh trong trầm luân khổ hải.
Luật pháp không đòi hỏi quá mức con người, chỉ buộc mỗi cá nhân phải làm đúng với cái tên đã có. Cái tên ấy là người tín đồ của Đại Đạo. Tín đồ của Đại Đạo không phải chỉ như một hội viên của một đoàn thể nào có tánh cách xã hội, nó còn thiêng liêng hơn gấp mấy trăm lần. Vì một hội viên phải phục tùng tôn chỉ của hội là tuân hành điều lệ kỷ luật đã ấn định, để làm cho hội được lớn mạnh, phát triển dễ dàng. Hội ấy là một tổ chức từ thiện nhứt thời, chan rải tình nhơn loại giữa nhau. Hội viên hội ấy làm sao sánh kịp được cái tên tín đồ của Đại Đạo.
Tín đồ là người đã được cứu, được nâng mình lên trên tất cả cái gì mà người ta gọi là phàm phu hèn thấp, đã được khước bộ Âm Ty, được vào trong hàng thánh đức, được Thầy và các Đấng thiêng liêng hằng trông coi dìu dắt, thoát nơi đen tối vô minh. Người tín đồ có giá trị nơi phần thiêng liêng để độ phần hồn siêu xuất khổ hải, cứu phần xác danh phận cao tôn.
Ôi! Từ lâu người tín đồ ngỡ là vào cửa Đạo để cho vui, chưa thấy cái giá trị tôn quý trong hàng thánh đức, nên vào thì vào, tu cũng tu, chớ nào thấy cái trọng trách phải làm sao cho xứng đáng và được đẹp lòng Thầy điều độ.
Từ lâu quẩn quanh đua tranh với mồi danh bả lợi, giành xé nhau tấm mặc miếng ăn, mua sự thỏa thích cho ý tình mà quên thấy xấu hổ ti tiện và tự hạ giá trị con người xuống cùng hàng thú vật. Nên năm nay là năm Chỉnh Pháp Giáo Pháp, cần được chỉnh đốn mọi mặt trong nội bộ, nhất là tín đồ, để cho xứng đáng một người tu, khỏi mang tiếng cái tên học trò Tiên mang lốt Đạo. Vì thế mà lời kêu gọi của năm Khai Cơ Giáo Pháp, khảo xét tất cả từ nhơn sanh chí Hội Thánh. Kẻ thiên chức, người tín đồ phải mau mau trở về với nhiệm vụ.
Trở về là nghĩa làm sao? Phải chăng từ lâu ta đã đi xa luật pháp, tách biệt cùng Thầy, nên hầu như rời tách con đường tạo Tiên tác Phật. Nên trở về là ý nói quy y cùng Thượng Đế, cùng tổ chức, cùng đoàn thể của mình.
Về với Thầy, ta phải làm những gì cho xứng đáng với nhiệm vụ. Về với tổ chức, với chúng bạn thì làm sao? Nên nhiệm vụ của tín đồ là giữ tròn Tam Quy Ngũ Giới, làm đúng hai mươi bốn điều Thế Luật để sửa mình, để độ người. Cùng nhau siết tay xây dựng nền móng Đạo, hàng ngũ sống còn kết thành bức tranh tốt đẹp kỳ xảo. Chư chức sắc, chư chức việc ai ở cấp bậc nào trong hàng phẩm nào, đều làm tròn phận sự là trở về với nhiệm vụ.
Trở về như thế là quy y Phật vị, nương lấy oai thần điển huệ Chí Tôn mà tạo thành con người Bồ Tát, là người giữ đúng pháp luật, nhờ pháp luật mà tạo cải thân tâm, chế phàm phu, ngăn tình thức, xây dựng con người Thần Thánh, vứt bỏ được oan trái phiền não nghiệp chướng, ác tâm. Lòng vui tươi, thân khỏe mạnh, thần trí sáng suốt, giá phẩm tăng cao, đức hạnh uy nghi, cảm hóa được người bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh, ma quỷ khâm phục tôn ca. Ấy là quy y Pháp.
Nhờ tùng Pháp mà đi đến Đạo, đạt Đạo để cứu chúng sanh, mà cứu được người là đại Thiên hành hóa.([3]) Cứu người không phải học cho nhiều, nói cho suốt, biện bác cho tài tình. Cứu người ở trên thực chất bằng hành động, lời nói việc làm đã chứng tỏ mỗi ngày. Mà chính yếu là phần công phu thực hành tu dưỡng nơi thân tâm, hiện ra dung dáng bằng đức hạnh, làm cho điển lực nơi người rung động từng cơn như làn sóng, rất có hiệu lực. Nói ra ai cũng ưa nghe, khiến được xa gần tất cả ai cũng được thế, thì bao nhiêu hiệu lực kia cộng hợp lại thành khối. Khối ấy mỗi một lúc phát ra thì có khác chi xuân khí đầu năm. Không nói cứu sống, nuôi mạnh, trợ lực cho vạn vật, mà vạn vật được tiếp lấy khí xuân dương phát tải hồi sanh vượng. Ôi! Ai biết quyền pháp đó chăng? Vô danh, phi thường danh mới thành đại nguyện, nên vô vi để dịch sử quần linh là phương tu lập pháp.
Lập pháp là lập cái thân. Lập cái thân là lập thành thánh thể cho Đại Đạo. Lúc trì châu khởi chú, cúng sám quỳ hương, vận khí điều thần là làm cho thân được lập, tâm được thanh, quyền pháp được tụ hội. Thần khí quy về pháp giới tịnh yên, nhứt khắc trụ thần vào đâu là sử dịch được đó. Vô vi không phải không làm để chơi rông, tiêu cực với nhiệm vụ, mà trái lại để tăng trưởng sức lực hoạt động bên trong, bình tĩnh mà tiếp phăng nguồn gốc mối manh của vạn hữu mà định phương tịnh độ.
Vì pháp luật cần yếu cho người, người nương pháp luật mà lên ngôi thượng phẩm. Pháp luật cứu được mình, cứu cả chúng sanh; nó là cái quy củ nhất định không ai bỏ ra mà nên việc được. Vì vậy về phần giữ Đạo là giữ pháp luật để cho còn Đạo. Còn Đạo là còn thân tâm Bồ Tát của ta. Còn ta còn Đạo thì còn mong ngày tận độ chúng sanh.
Chúng sanh quay về với pháp luật thì chúng sanh và ta là một. Một ấy là Đạo, nên lấy con số một làm đề mục cho việc giữ Đạo hành pháp. Lấy con số hai làm bộ máy chế hóa cho tâm tức điều hòa, đạo đời không trái. Chỉ có hai mới làm được việc giữ đạo, truyền đạo. Sao vậy? Vì hai là phần khí của Tạo Hóa để trưởng thành vạn hữu, để phân định sáng tối, để phân thanh giáng trược, để ghép liền mảnh nọ thân kia cho đôi phần dính dáng. Hai là pháp, pháp để làm cho thành sự, còn luật để cho sự sự tương liên.
Pháp luật là cơ mầu nhiệm cứu người vô kể. Phật đã thành, Phật sắp thành và chúng sanh sẽ được thành Phật, đều nương pháp luật. Phật đã qua, Phật sắp tới đều dính liền, khác chi tràng hạt trên tay lúc đương lần niệm. Cứ lăn quay hết vòng này sang vòng khác, đều yên vững nương lấy sợi dây đạo pháp mà tiến về với câu thần chú. Câu thần chú là tiếng gọi bao hạt từ bi. Còn gọi còn thấy chúng sanh quay mình trong pháp Đạo tiến về một phương để chầu Thượng Đế. Không ai không nhờ quyền (Thầy) pháp (Hội Thánh) mà được cứu. Vì vậy kẻ có trách nhiệm nên thận trọng mà lo tròn sứ mạng nơi mình, ráng tu để cầu đạt Đạo.
Bây giờ nói qua về phần truyền đạo. Phần nầy không phải riêng cho giáo sĩ truyền giáo, mà cũng không riêng chư Thiên phong chức sắc của Hội Thánh, mà là phần việc chung của mỗi tín đồ.
Nếu nội bộ có đủ tư cách quyền pháp tinh minh, chẳng những độ chúng sanh trong cõi ta bà mà còn độ cả thiên la chúng thần trên thượng giới.
Điều quan trọng hơn hết là phần giữ đạo, ví như ngọn đèn muốn soi sáng khắp một gian nhà thì sự sáng nó bắt từ trong cái tim ở miệng bình mà ra, chứ phải sự sáng ở ngoài mà đến đâu. Cũng như khai mương, đào lạch để đem nước cho đến phương xa chảy về nguồn cả. Vì vậy phần giữ đạo là chính, phần truyền đạo là phụ. Nói phụ không phải để đặt nhẹ vấn đề nầy, mà để ta phải tu chỉnh nội bộ trước nhất cho hoàn thành vững chắc, rồi đi truyền đạo mọi nơi.
Nếu giữ đạo mà không truyền đạo thì không thành đạo. Người truyền đạo là người hiện thân của pháp luật. Có cái thân pháp luật mới có lời nói pháp luật, việc làm pháp luật, đi dạy người học tu pháp luật. Nên truyền đạo là truyền bá pháp luật để được cứu. Pháp luật là cái cầu bắc ngang cho người và Trời làm một, làm cho khách ta bà nơi phàm tục qua bờ giác bên kia.
Truyền đạo là gieo giống lành vào lòng chúng sanh, và gieo sự sáng vào cõi tăm tối. Giống lành sự sáng chính là Thượng Đế hay là đạo đức. Có giống lành sự sáng nơi mình mới có mà gieo, chớ không lẽ hai tay không vãi vào thiên hạ bằng thứ chi để cứu.
Giống lành sự sáng ta có sẵn là nhờ ta tiếp liên với Thượng Đế, do nhiều công phu tu tập lâu ngày. Cái thân làm chỗ chứa giống lành sự sáng, chớ không phải tự nhiên không mệt nhọc mà có. Có là nhờ thân ta đã dọn sạch giống dữ, sự tối ra khỏi, để cho giống lành sự sáng được tụ. Không thể có hai đối tượng ở chung nhau làm thân được. Hễ chứa lành thì dữ phải đi, có sáng thì tối kia phải hết.
Người truyền đạo phải tu tập quyền pháp mà cứu đời. Người truyền đạo gần nhơn sanh hơn hết là Chánh, Phó Trị Sự, Thông Sự, một thành trì giữ đạo mà cũng là cờ đạo cắm khắp nơi. Vậy khuyên nhắc cơ sở xã đạo ráng lo tu học. Tiểu Thánh tạm ngừng về đoạn truyền đạo, sau sẽ nói thêm.
(…) Tiểu Thánh chào.
(Trích: Phạm Văn Liêm, Hồng Ân Tận Độ. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2016, tr. 101-112. Quyển 92-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.)
u Đức CAO BẢO VĂN QUÂN sinh thời là tiền bối Cao Hữu Chí (1904-1953), một bậc hướng đạo tài đức của công cuộc truyền giáo Cao Đài ở miền Trung, với phẩm vị Thiên phong là Tiếp Văn Pháp Quân. Chân dung tiền bối Cao Hữu Chí có in trong: Phạm Văn Liêm, Mấy Nhánh Rồi Sau Cũng Một Nhà. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014. Quyển 86-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.


([1]) Đây là do hiểu sai ý nghĩa và thực hành sai đạo lý ẩn ác dương thiện 隱惡.
([2]) tiểu tâm 小心: Thận trọng, không khinh suất.
([3]) đại Thiên hành hóa 代天行化: Cùng nghĩa với thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).