Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

19. THẦY ĐÃ ĐẾN ĐÂY

19. THẦY ĐÃ ĐẾN ĐÂY
THÌ SỨ MẠNG VỀ ĐÂY
 Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
ngày 28-11 Kỷ Hợi (Chủ Nhật 27-12-1959)
THI
VÕ Môn tam cấp lãng
MẪN cán đắc trường sanh
KÍNH cung Tam Thánh Bảo
Hỷ ngộ hội Tam Thanh.([1])
Chào chư Thiên mạng chức sắc,([2]) chư sư hữu ([3]) đạo tràng.([4])
Giờ nầy, Lão Thần thừa phụng thánh chỉ ([5]) đến đàn rao truyền thánh lệnh. Chư Thiên ân ([6]) và sư hữu đạo tràng thành tâm đón mừng Giáo Tông.
(. . .)
TIẾP ĐIỂN
LÝ đâu ([7]) chư đệ chẳng gia công ([8])
THÁI quá ([9]) rồi ra chỗ mất lòng
BẠCH bạch minh minh ai dám trách ([10])
Giáng đi nhiều cấp, mất Thiên phong.([11])
Lão chào chư Thiên mạng, chư chức sắc hộ trì, chư hàng công đức Phước Thiện (…). Chư chức sắc Phước Thiện và chư Thiên ân tọa thiền thính lịnh.([12]) Chư đạo tâm toàn đàn nghe dạy.
Lão hôm nay mời chư chức sắc Phước Thiện về đây nghe Lão dạy.
Này chư Hành Thiện, Giáo Thiện và Phục Thiện ôi! Nếu một ngày thế giới phải biến thiên, nhơn loại đồng chịu trong cơ tận diệt ([13]) đến đây, thì chư chức sắc còn giữ được gia tư,([14]) sự nghiệp của mình không, hay rồi cũng phải tha hồ cho nó tự do mà thiêu hủy? Sao chư vị không suy xét lẽ đời, cảm thông thánh ý?
Thiên hạ khắp trên mặt đất này, người người đương quằn quại khổ đau, thiếu cơm thiếu áo, có nhà không được ở, có của không được dùng, đường rộng khó đi, đất dư không nơi trốn tránh. Người ta sắp chết vì nỗi lý tưởng cạnh tranh, vì lợi danh cấu xé, vì giai cấp đấu tranh, vì màu sắc chính trị. Họ khổ lắm rồi! Khổ đầy ngập, không còn hơi để thở!
Sao chư hiền không đặt lòng thương vào đấy? Không toan lo cứu vớt đồng bào, nâng quyền pháp mình lên để mở đường giải phóng cho nhơn sanh ([15]) ra ngoài vòng khốc liệt, lại lo quẩn quanh trong xó vườn thẻo ruộng, bế con nựng cháu, tưởng thế là giải quyết được thỏa mãn cho gia đình.
Một nhà dầu có đủ, cũng chắc gì vui mà ngó đồng loại lầm than ([16]) cho đành gan dạ. Nếu thiệt mọi người cùng để tâm lo cho thân mình, nhà mình, nước mình, thì xưa nay cũng đã hòa bình thịnh vượng lắm.
Cái lo chật hẹp nhỏ nhen, cái lo tổn nhơn ích kỷ,([17]) lo như vậy là chỉ biết mình, nào biết đến ai. Sống chết mặc bay, đói no trối chúng,([18]) thì tình đồng bào chủng tộc đâu còn, làm sao nước không mất, nhà không suy, dân không chịu trong những trường ([19]) máu xương khói lửa.
Chư Thiên ân đây là người được chọn, mà cũng là nguyên căn ([20]) phát nguyện xuống trần, người mà ở trong hàng nhơn sanh ([21]) ưu tú đưa lên, người mà Hội Thánh để mắt theo dõi cử ra hành đạo. Chư Thiên ân cũng nhận được sứ mệnh ở mình, dù đói dù no, có mất hay còn, cũng nguyện một đời phụng thờ lý tưởng, hy sinh cùng lẽ Đạo, toan phần xốc gánh nhơn sanh; đâu phải những kẻ tầm thường sống vì miếng ăn tấm mặc, nô lệ cho đồng tiền, quẩn quanh trong gia đình, hủ hỉ với vợ con, đưa tay cho tử phược thê thằng,([22]) quên mất đạo làm người vì dân vì nước.
Các hiền nên bình tĩnh mà soát xét lại. Một cái bàn bị gãy chân, các vật để trên bàn đều bị khua chuyển. Có đứng mà giữ cũng không thể làm vật ấy được bình yên. Sao không buông vật đó ra, lo tìm miếng kê mà chêm chân bàn cho vững thì tất cả các vật của người và vật của mình trên đó cũng vững vàng.
Cũng vậy đó, nước đương loạn, nhà đương nguy, thế giới đương kình chống rối ren. Ngòi lửa chiến tranh đốt lên thì tất thảy muôn nhà phải cháy, muôn người phải thiêu. Tài sản, thân mệnh của thiên hạ bị tan tành thì của các hiền tài nào sót lại. Đó là nạn tiêu diệt, rồi đến họa trời tiêu vong. Bởi lý do mất cái gì nòng cốt ([23]) cho bốn biển? Mất cái gì làm thịnh vượng cho muôn loài? Mất cái gì mà nhân dân thù ghét lẫn nhau, nhơn loại mới toan lòng ác độc? Mất cái gì đây, mà trước kia thời cổ sơ được thịnh vượng hòa bình, sống đời Thuấn Nghiêu, ngày Tiên tháng Phật?
Có phải đời bây giờ lòng người mất cái phần tinh túy thiêng liêng, phần đạo tâm thánh đức? Lòng người không còn tình thương, lẽ sống. Lẽ thiệt đã cách xa, lòng mỗi người trở nên đen tối, chật hẹp. Đã bị đen tối, chật hẹp rồi thì chung quanh ma quỷ bao vây, chất chứa nơi mình đầy tội ác. Mà đời thiếu thiện khí hồn nhiên, đời thiếu thánh nhơn quân tử. Đời đã mất lẽ công lý, công bằng nên đời đảo điên, di dịch. Đời không người trung chính ([24]) làm đầu, không bậc sứ mệnh ân oai([25]) hướng đạo ([26]) thì đời đâu được an toàn.
Đời hạ nguơn là đời tận diệt. Tận diệt sắp đến nên cho loài người một cuộc tàn phá ghê gớm, một cuộc xáo trộn kinh hoàng. Tất thảy loài người, dầu kẻ hiền người ngu, kẻ lành người dữ, không lẽ chung chịu trong lò biến thiên, trong kỳ mạt tận?
Nên Thầy thương xót loài người. Dưới vòm trời còn biết bao nhiêu là nguyên nhân ([27]) chủng tử.([28]) Thầy động lòng từ bi lập giao ước ([29]) cùng Tam Giáo, phế Ngọc Kinh, giao quyền ngự trị ([30]) cho quần Tiên, đến cõi phàm trần đưa tay chận đứng cuộc tiêu vong, trải lòng dạ Ngài mà bao dung ([31]) cho nhân loại.
Thầy đến đây rồi. Thầy đã đến đây thì sứ mạng về đây.([32]) Sứ mệnh trên dải đất này, sứ mệnh trên người Thiên ân hướng đạo, sứ mệnh gắn cho người giác ngộ đạo đức kết thành một trận tuyến trung kiên ngăn chận nạn đời cho nhơn loại.
Đời thiếu sự sống nên đời mới nổi lên các cuộc chém giết nhau. Đời thiếu tình thương mà đời xô đẩy con người vào chốn khổ triền miên. Đời không lẽ thật mà giữa nhau gạt gẫm nhau, lừa dối nhau, phản phúc nhau; cho chí một nhà, một nước hay cả nhơn sanh cũng là mang đầy dối trá, nên đời hay lòng người nói chung không một ai khỏi bị thiếu thốn .
Thiếu thốn cái gì không biết mà lòng mải lo. Lo cả đêm lẫn ngày cũng không thỏa mãn. Kẻ nghèo phải lo, nhưng kẻ giàu cũng phải lao tâm tiêu tứ.([33]) Nước yếu cực trí ([34]) đã xong, nước mạnh cũng khổ tâm nhi dĩ !([35])
Cái sự thiếu ở lòng người hay ở cõi đời hôm nay đã thấy được. [Vì]([36]) chỗ thiếu ấy mà bốn biển không yên, lòng người không định. Thầy đến ban cho cái thiếu đó để làm cho đời với người được thăng bằng, được đứng vững, được thịnh vượng, được thư nhàn là cái sứ mệnh đây, cái thánh thể ([37]) này. Đó là phương tận độ ([38]) mà công cụ thiết lập hòa bình trật tự cho thế gian, công cụ xây dựng văn minh đại đồng ([39]) cho nhơn loại là chính người Thiên ân hướng đạo, người chịu quyền pháp của Thầy, người môn sanh trong nền Giáo Hội, mà người lo về mặt đời là người Phước Thiện.
Sứ mệnh ấy các đệ làm sao đây? Ngó lơ đi được không? Trốn nhiệm vụ về nằm nhà có yên không? Hay phải sao đây bây giờ?
Các đệ có nỡ nào rút một cái chốt trong đáy thuyền tế đ([40]) để cho nước ngập, thuyền chìm? Các đệ là những cái chốt đóng vào các lá be,([41]) các con đà,([42]) hay một cái nan trong đáy đó. Các đệ muốn cho thuyền đắm thì rút ra. Dầu không muốn rút ra mà cái chốt bị mục, cái nan bị hư cũng có thể dẫn nước vào khuôn,([43]) vì nan hay chốt đó không thể giữ chống lại bên ngoài, mà bị bên ngoài tấn công thì phải xếp mình nhường bước. Đó là bỏ hàng ngũ, không theo quyền pháp trách nhiệm, chẳng đi hành đạo, kết cấu với hoàn cảnh, phạm giới sai quy, mê mẩn sự đời, liều thân nghiêng ngả.
Chư chức sắc Phước Thiện làm gì đây? Đã mấy năm rồi, thành tích lập pháp làm sao? Đưa bước đời đến bước nào? Đường tu thân học đạo đã xứng người trung kiên lãnh đạo chưa?
Lão vẫn chờ. Chờ hết ngày nọ đến tháng kia, năm kia. Năm qua rồi hết. Đến năm nay mà hàng ngũ chức sắc không xây dựng được, bộ máy không tổ chức được. Giữa nhau quyền pháp không ban bố được. Sự liên lạc, theo dõi không nắm được, làm được. Thậm chí một Phục Thiện coi năm Giáo Thiện mà cũng không biết ai mất ai còn, ai tu ai ngã. Một Giáo Thiện coi năm Hành Thiện mà Giáo Thiện một nơi, Hành Thiện một ngả, có biết gì đâu.
Trên dưới không tôn trọng quyền pháp, trong ngoài không thân tín với nhau, thì làm sao mà xây dựng sơ bộ ([44]) đại đồng, nhơn sanh nhứt luật. Chỉ có mười lăm Giáo Thiện mà hai người bỏ đạo không biết, hai người phạm giới không hay, chẳng hiểu Phục Thiện làm gì. Trong hàng Giáo Thiện tại sao không dính liền tương quan liên đới.([45])
Bây giờ chư chức sắc Phước Thiện cố gắng lần nầy. Cố gắng nhiều và nhiều hơn mấy lần trước mới làm được việc.
Ngày nay Hội Thánh đương lúc quyền pháp thiếu nghiêm, hàng ngũ nhơn sanh đương còn rời rạc. Trên giáo quyền ([46]) yếu đuối, dưới cơ sở mỏi mòn. Cái trách nhiệm tồn vong đâu phải riêng gì các hàng Thiên ân quyền pháp, nên chư đệ phải đồng tâm ([47]) hiệp lực cộng tác mà lo canh tân ([48]) hàng ngũ, cải thiện nhơn sanh, hy sinh một phần ít gia đình, lo đắp xây nền đạo.
Người nào già yếu hoặc không thể dứt khoát sớm được, lúc ở nhà cũng giữ giới tu hạnh đạo, làm gương cho người đời, bạn đạo noi theo. Đừng nặng vui quên xấu mà đem lại tai tiếng cho Đạo, đê hạ ([49]) cho thân.
Trong hàng Hành Thiện, các đệ cũng thấy phần trọng trách ([50]) của mình mà cố gắng lên. Các đệ gần một trăm người, kể luôn Thính Thiện có ba trăm mấy mươi vị mà làm không xong, còn đòi hỏi bao nhiêu nữa?
Vậy Lão muốn bắt đầu năm Canh Tý chư chức sắc theo chương trình xây dựng Phước Thiện do Hội Thánh vạch định mà thi hành. Cố gắng nhiều mới xong. Phải đổ xô tâm lực. Dầu làm không được một loạt cũng chia nhau một vài họ đạo hay một đôi xã đạo. Đặt kế hoạch vận động đạo hữu một cách thiết tha, mạnh mẽ, liên tục. Kết hợp cho được những người thiện tâm làm tương ứng. Ba Cơ Quan hợp lại: Hành Chánh ra lịnh; Minh Tra đôn đốc; Phổ Tế giảng luận, thuyết trình.
Phước Thiện nhơn lòng đương lúc ấm cúng, nồng nhiệt cũng nổi lên, lập tức lợi dụng thời cơ mà đặt móng xây nền Phước Thiện. Có đồng thanh hưởng ứng lời Lão và theo Lão hoạt động xây dựng cơ sở nhơn sanh không? Vậy theo mười điều răn mà thi hành.
BÀI
Muốn cho Giáo Hội có quyền
Bản thân chức sắc mối giềng ([51]) chung tay
Tình đời mình chớ có say
Nên phần nội bộ trông ngay lại mình.
MỘT, khuyên gắng hy sinh hành đạo
Đạo được nên, hoài bão ([52]) đừng lơi
Gần xa trên dưới một lời
Chung tay xây dựng cuộc đời thuần phong.
HAI, khuyên khá để lòng lo liệu
Đừng riêng lo lịu địu gia đình ([53])
Làm sao sáng lẽ công bình
Hễ người được lợi thì mình mất chi.
BA, khuyên nhớ đi đi lại lại
Vì nhơn sanh gieo rải tình thương
Trông nom, hướng dẫn, chủ trương
Gia đình êm ấm, mọi đường tinh minh.([54])
BỐN, khuyên tự đặt mình thanh khiết
Quyền pháp tinh mọi việc mới thông
Muốn đưa người đến đại đồng
Thì mình phải có cái lòng vị tha.([55])
NĂM, khuyên lấy chữ hòa làm đích
Lập thân bằng công tích ([56]) nhiều năm
Rủ nhau đi viếng đi thăm
Người đau người khổ bị trăm việc đời.
SÁU, khuyên tu đến nơi đến mức
Giải thoát lần, tích cực việc công
Ý Trời tình đạo cảm thông
Để tâm hồi hướng, thông công ([57]) nhẹ nhàng.
BẢY, khuyên lập cơ quan hàng ngũ
Lập lấy lòng đầy đủ đức tin
Dưới trên chung trí giữ gìn
Kẻ đi người ở, nhận nhìn việc chung.
TÁM, khuyên phải sống cùng đạo hữu
Gây tình thương trợ cứu ([58]) lẫn nhau
Làm cho ai cũng mạnh giàu
Cơm no áo ấm, giữ màu đạo tâm.([59])
CHÍN, khuyên biết âm thầm lúc khó
Khó khăn thì ở nhỏ,([60]) lòng chơn
Đừng cho tiếng oán lời hờn
Miễn tròn công vụ, nghĩa nhơn ([61]) đủ đầy.
MƯỜI, khuyên nhớ lời Thầy, quyền đạo
Tôn trọng là cải tạo thế gian
Lập thân hành đạo rõ ràng
Đưa cơ thống nhất huy hoàng ngày mai.
Bây giờ không thể dạy riêng; vậy, Lão hứa tân xuân sẽ gởi hồng ân biếu cho vị nào tích cực việc Phước Thiện.
Lão đã nói, không phải phủ nhận công khó lo lắng của chư đệ. Chư đệ có công rất nhiều nhưng công ấy chưa được quyền pháp hóa; nghĩa là tự chức sắc nỗ lực làm lấy việc, chưa đem cái nỗ lực để khiển được đạo tâm, thiện tín.
Làm người chức sắc, khi nào còn phải làm nhiều, tốn nhiều là chưa đem được cái đức hạnh của mình thần thánh hóa cho nhơn sanh.
Nhơn sanh chừng nào thấy người chức sắc lo mà thiện tín khóc, thấy người chức sắc làm mà thiện tín giành lấy, thấy chức sắc khỏe mà thiện tín mừng, người chức sắc đi đâu thiện tín theo đó, coi như Thần Thánh [thì] mới thần thánh hóa nhơn sanh được.
Nếu nhơn sanh còn lờn dể ([62]) chức sắc, [thì] quyền đạo chưa mạnh, pháp đạo chưa hiện, sứ mệnh chưa về trọn, cơ tán tụ vẫn bị di dịch biến động mãi. Phải làm sao xây dựng con người Thiên ân ai cũng kỉnh và mến mới đi truyền đạo được.
(. . .)
Lão ban ơn cho Phước Thiện một năm chiến thắng, thành công.

PHỤ ĐÍNH:
Giải nghĩa bài thơ xưng danh
Võ Môn, Vũ Môn 禹門 (Yu’s Gate) ([63]) cũng gọi Long Môn 龍門 (the Dragon’s Gate), ở tây bắc huyện Tắc Sơn 稷山, tỉnh Sơn Tây 山西, nơi sông Hoàng Hà 黃河 chảy qua, nước chảy rất xiết; tương truyền khi vâng lịnh vua Thuấn đi trị thủy (ngăn lụt lội), ông Võ (Vũ) sai dân công đào chỗ này.
Ông Võ nối ngôi vua Thuấn, khai sáng nhà Hạ, thiết lập chế độ quân chủ cha truyền con nối. Như vậy, chế độ truyền hiền bất truyền tử khởi từ vua Nghiêu (Thiên Quan Đại Đế 天官大帝), qua vua Thuấn (Địa Quan Đại Đế 地官大帝), tới vua Võ (Thủy Quan Đại Đế 水官大帝) thì chấm dứt.
Theo truyền thuyết, Thiên Đình tổ chức một cuộc thi cho các loài thủy tộc để tuyển thêm rồng làm mưa. Cá chép (lý : carp) lội ngược dòng, vượt qua được ba đợt sóng lớn ở Long Môn nên đắc thắng, biến thành rồng. Có câu: Lý ngư dược Long Môn; đắc giả hóa vi long鯉魚躍龍門得者化為龍. (After successfully leaping over the Dragon’s Gate, a carp is transformed into a dragon.) Do đó, văn học dùng thành ngữ cá vượt Võ Môn ám chỉ người thi đậu.
Tam cấp lãng 三級浪 (ba đợt sóng lớn) được dùng để ám chỉ ba kỳ thi (thi Hương, thi Hội, thi Đình). Từ đời Đường, người thi đậu được gọi là “vượt Võ Môn” hay “đăng Long Môn”. Sang đời Tống, có Uông Thù 汪洙 (không rõ năm sinh và năm mất), người Ninh Ba 寧波, tỉnh Chiết Giang 浙江, đậu tiến sĩ năm 1100 đời vua Tống Triết Tông 宋哲宗, là tác giả bài thơ ngũ ngôn nhan đề Thần Đồng Thi 神童詩 (thơ thần đồng). Trong đó, Uông viết:
Niên thiếu sơ đăng đệ
Hoàng đô đắc ý hồi
Võ Môn tam cấp lãng
Bình địa nhất thanh lôi.
年少初登第
皇都得意回
禹門三級浪
平地一聲雷
(Tuổi trẻ vừa thi đỗ
Kinh đô đắc chí thay
Sóng ba đợt Cửa Võ
Sấm động đất bằng lay.)
Về sau, Võ Môn tam cấp lãng trở thành điển cố văn học; bởi vậy, bài thơ xưng danh nhắc tới năm chữ này:
VÕ Môn tam cấp lãng
MẪN cán đắc trường sanh
KÍNH cung Tam Thánh Bảo
Hỷ ngộ hội Tam Thanh.
禹門級浪
敏幹得長生
敬恭三聖寶
喜遇會三清
Câu 1: Tam Kỳ Phổ Độ là một cuộc thi, thế gian là trường thi, người tu là thí sinh. Tu đắc đạo được dự Hội Long Hoa là thi đậu. Hàm ngụ nghĩa đó, mở đầu bài ngũ ngôn tứ tuyệt xưng danh, ngài Võ Mẫn Kính nói: Võ Môn tam cấp lãng.
Câu 2: Mẫn cán là chăm chỉ và giỏi giắn (solicitous and clever). Siêng năng tu tập và giỏi giắn hành đạo thì đắc đạo, thoát luân hồi sanh tử (đắc trường sanh: attaining immortality).
Câu 3: Kính cung (cung kính) là kính trọng (respecting). Tam Thánh Bảo, tạm hiểu là Tam Bảo thiêng liêng (Trời Phật, Chánh Pháp, Tăng hay bậc chân tu).
Câu 4: Hỷ là mừng vui (being happy). Ngộhội cùng nghĩa, là gặp gỡ (meeting). Tam Thanh ám chỉ đạo Cao Đài. Cờ đạo Cao Đài có ba màu (vàng, xanh, đỏ), còn gọi là cờ Tam Thanh. Hỷ ngộ hội Tam Thanh là mừng thay được gặp đạo Cao Đài.
Bài thơ xưng danh quán thủ là VÕ MẪN KÍNH HỶ, nghĩa là ngài Võ Mẫn Kính chào mừng các vị hầu đàn.


([1]) Xem Phụ Đính cuối bài thánh giáo này.
([2]) Thiên mạng 天命 (the Heaven’s mission): Sứ mạng Trời ban trao. Thiên mạng chức sắc 天命職色 (dignitary carrying the Heaven’s mission): Chức sắc nhận lãnh sứ mạng Trời ban trao.
([3]) sư hữu 師友 (coreligionist, friend of the same master): Tiếng để gọi bạn cùng học một thầy. Đàn anh cùng học một thầy gọi là sư huynh 師兄. Đàn chị cùng học một thầy gọi là sư tỷ 師姊. Đàn em cùng học một thầy gọi là sư đệ 師弟 (nam) hay sư muội 師妹 (nữ).
([4]) đạo tràng (trường) 道場 (religious premises): Chỗ tu học, nơi sinh hoạt tôn giáo (chùa, thất, thánh đường, thiền viện, tu viện…).
([5]) thừa phụng 承奉 (respectfully obeying): Kính vâng theo. thánh chỉ 聖旨 (holy edict; God’s edict): Chiếu chỉ của Thượng Đế.
([6]) Thiên ân (the recipient of Heaven’s blessing): Người thọ nhận ơn Trời. chư Thiên ân: Từ xưng hô trang trọng (ngôi thứ hai) để gọi những vị đang nhận trách nhiệm hoằng giáo.
([7]) lý đâu: Lẽ nào.
([8]) gia công 加功 (trying hard, attempting): Cố gắng, nỗ lực, ra sức.
([9]) thái quá 太過 (excessive, immoderate): Vượt quá mức thông thường, vượt quá mức cần thiết.
([10]) Bạch bạch minh minh 白白明明 ai dám trách (If everything is obvious, who dare blame you?): Nếu mọi việc đều minh bạch 明白, rõ ràng thì đâu có ai dám phiền trách.
([11]) Giáng đi nhiều cấp, mất Thiên phong (When several levels of dignitaries are demoted, they will lose their assignments by Heaven): Nhiều cấp chức sắc bị giáng thì (a) họ mất hết nhiệm vụ Thiên phong; hoặc (b) Hội Thánh mất chức sắc Thiên phong.
([12]) thính lịnh (lệnh) 聽令 (listening to an order): Nghe lịnh.
([13]) tận diệt 盡滅 (extermination, complete destruction): Tiêu diệt hết tất cả, hủy diệt hoàn toàn.
([14]) gia tư 家私 (family property, family wealth): Gia tài, gia sản.
([15]) nhơn sanh (nhân sinh) 人生 (human beings): Con người.
([16]) lầm than (miserable, wretched): Vất vả, cơ cực, khổ sở.
([17]) tổn nhơn ích kỷ 損人益己 (harming others for one’s personal benefit): Thiệt hại người khác mà lợi riêng cho mình.
([18]) trối chúng (indifferent to others): Mặc kệ thiên hạ.
([19]) những trường (places): Những nơi những chốn.
([20]) nguyên căn : Cùng nghĩa với nguyên khách 原客 (original guest), nguyên nhân 原人 (original human), là linh căn 靈根 có nguồn gốc trên cõi trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân (nhơn) 化人 là người vốn từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên.
([21]) nhơn sanh (nhân sinh) 人生 (followers): Tín đồ.
([22]) tử phược thê thằng 子縛妻繩 (the bondage of one's wife and children): Vợ con trói buộc.
([23]) nòng cốt (hạch tâm 核心: core): Thành phần chủ yếu, hạt nhân.
([24]) trung chính (chánh) 中正 (fair and honest): Không thiên lệch; ngay thẳng và trung thực.
([25]) ân oai (ân uy 恩威: grace and power; favour and authority): Ơn huệ và quyền uy.
([26]) hướng đạo 向導 (those who lead their coreligionists): Người dẫn dắt đạo hữu.
([27]) nguyên nhân 原人 (original human): Là linh căn 靈根 (spirit root) nguồn gốc từ cõi trời, nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân (nhơn) 化人 là người vốn từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên. Theo Ngọc Lộ Kim Bàn 玉露金盤 (The Golden Basin of the Jade Dew) sau hai kỳ phổ độ thì còn sót lại chín mươi hai ức nguyên nhân 九十二億原人 phải được đưa hết về thượng giới trong Kỳ Ba (hạ nguơn).
([28]) chủng tử 種子 (seed): Hạt giống.
([29]) giao ước 交約 (testament, covenant, contract, agreement): Minh ước 盟約; những quy định (cam kết) về quyền lợi và trách nhiệm giữa hai bên để hai bên căn cứ theo đó thực hiện.
([30]) ngự trị 禦治 (reigning, ruling): Làm chủ, cai trị.
([31]) bao dung 包容 (inclusive; tolerant): Gồm chứa (dung nạp) hết thảy, khoan dung tha thứ; sẵn lòng chấp nhận sự hiện hữu của các ý kiến, đức tin khác, v.v...
([32]) sứ mạng 使命 (mission): Lệnh sai phái và phải làm xong. Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.
([33]) lao tâm tiêu tứ 勞心消思 (racking one's brains): Nhọc lòng mệt trí, hao tổn tinh thần.
([34]) cực trí: Mệt óc suy nghĩ, lo lường.
([35]) khổ tâm nhi dĩ 苦心而已: Khổ tâm mà thôi.
([36]) Chữ trong dấu [. . .] là do chúng tôi thêm vào.
([37]) thánh thể 聖體 (holy body): Thánh thể của Đức Chí Tôn tại thế gồm Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài. Thánh thể là các thánh thất (hay thánh tịnh), Tòa Thánh, Hội Thánh.
([38]) tận độ (saving all): Cứu độ hết tất cả.
([39]) đại đồng 大同 (great harmony): Đại là lớn (great); đồnghòa (harmony). Đại đồng là cả thế gian cùng sống vui, hòa hiệp với nhau, không tranh cạnh.
([40]) tế độ 濟渡 (saving): Cứu vớt con người khỏi bể khổ sông mê, giống như đưa thuyền đến vớt kẻ chết đuối chở sang bờ bên kia. (Tế là qua sông, đồng nghĩa với độ.)
([41]) lá be: Tấm ván đóng cặp hai bên thuyền để cơi cho cao thêm.
([42]) đà: Cây gác ngang để lót ván lên trên.
([43]) khuôn: Phải chăng là khoang thuyền?
([44]) sơ bộ (preliminary): Bước đầu.
([45]) tương quan 相關 (interrelated): Liên quan lẫn nhau. liên đới 連帶 (related): Liên hệ, ràng buộc với nhau.
([46]) giáo quyền 教權 (religious authority): Quyền lãnh đạo trong một tôn giáo.
([47]) đồng tâm 同心 (of one mind): Một lòng một dạ.
([48]) canh tân 更新 (renovating): Đổi mới.
([49]) đê hạ 低下 (mean, inferior): Thấp hèn, đáng khinh.
([50]) trọng trách 重責 (heavy responsibility): Trách nhiệm nặng nề.
([51]) mối giềng (kỷ cương 紀綱: the core part affecting a whole system or a mechanism): Phần trọng yếu có ảnh hưởng tới cả một hệ thống hay bộ máy.
([52]) hoài bão 懷抱 (cherishing, embracing): Ôm ấp, ấp ủ trong lòng (một lý tưởng hay một ước vọng cao đẹp).
([53]) lịu địu gia đình (tied up by family affairs): Vướng bận gia đình.
([54]) tinh minh 精明 (bright): Sáng tỏ, rạng ngời, không khuất lấp.
([55]) vị tha (selfless, unselfish): Vì người khác, không ích kỷ.
([56]) công tích 功績 (merits and achievements): Công trạng và thành tích.
([57]) thông công 通功 (communion; communicating with): Liên lạc, tiếp xúc (các Đấng thiêng liêng). Thông công là thuật ngữ đạo Chúa. Xem: Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài (Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2019, tr. 75-80).
([58]) trợ cứu (cứu trợ 救助: helping, aiding, assisting): Giúp đỡ.
([59]) Cơm no áo ấm, giữ màu đạo tâm: Giúp đạo hữu sống ấm no để họ khỏi vì nghèo đói mà nhạt phai lòng đạo.
([60]) ở nhỏ (living in limited conditions): Sống trong điều kiện thiếu thốn, gò bó, hạn chế các tiện nghi.
([61]) nghĩa nhơn 義仁 (righteousness and benevolence): Nghĩa là điều đúng đắn, lẽ phải, mà người ta không thể không làm. Nhơn là lòng thương người thương vật.
([62]) lờn dể (disrepecting): Lờn mặt và khinh dể, không kính trọng, coi thường, khinh khi.
([63]) Lưu ý về đồng âm khác nghĩa (homonym): Vì liên quan tới ông Võ, nên chữ trong Võ Môn là tên ông Võ (Vũ) , cũng trùng với họ Võ (Vũ) . Vậy, nó không có nghĩa là mưa  (rain), cũng không có nghĩa là võ thuật, nghề võ (martial arts). Xem chữ Nho thì phân biệt rõ ràng hơn từ Hán-Việt.
Huệ Khải chú thích
Lê Anh Minh hiệu đính
Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2020