Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

16. THẦY PHẾ NGỌC KINH

16. THẦY PHẾ NGỌC KINH QUYẾT ĐẾN
TRẦN GIAN ĐỘ TẬN CÁC CON
Thánh thất Trung Nguyên (Thăng Bình, Quảng Nam)
ngày 28-4 Kỷ Hợi (Thứ Năm 04-6-1959)
THI
Liễu nhứt hoàn lai xuất nhị nhơn
Hoàng ly ngọc bệ độ sanh hồn
Thiên khai nhất đạo quy Tam Giáo
Nhơn nhập sơn kỳ luyện thánh đơn.
Bần Đạo chào chư Thiên ân, chư đạo hữu. Điển ký giải chiết tự bài thi trên.([1])
Bần Đạo giờ nầy đến cùng các đạo hữu để lời nhủ khuyên. Muốn nên sự nghiệp vẻ vang, cần phải quyết chí và phấn tâm([2]) lập thân hành đạo pháp. Phải nhiều công phu mới thành tựu. Cũng không phải một sớm một chiều mà xong. Càng gắng công càng gặp nhiều trở lực.
Từ xưa nay các bậc trượng phu,([3]) Bồ Tát nhờ có lòng kiên trì nhẫn nại mà đã tạo thành bao nhiêu công nghiệp ([4]) vẻ vang để lại cho đời, đến nay tiếng tăm còn nhắc. Xem các bậc kia chẳng những đã lăn lộn với bao hoàn cảnh, chịu nhục chịu đau, chịu chê chịu trách, mà còn có khi hy sinh cả thân mạng để mưu lấy sự nghiệp cho đời nếu cần, thì biết rằng trên đường đạo, ai có quyết tâm mới làm tròn nguyện lực, có lập chí mới tu thoát trần ai, chớ muôn việc đời không có chi dễ.
Đại Đạo ra đời thì ma vương cũng xuất thế. Nó gieo rải khắp nhơn gian ([5]) những mưu chước làm trở bước của Thầy. Các đạo hữu phần đông bị phỉnh lừa mà lọt vào tay chúng nó. Bần Đạo vì thương mến các đệ đã lắm công trình,([6]) nên hằng để lòng che chở, khuyên nên gắng đi cho đến nơi đến chốn.
BÀI
Đêm thanh gió mát cảnh nhàn
Bầu trời yên tĩnh trần gian chưa hòa.
Bốn phương dấy can qua ([7]) tàn phá
Năm châu tranh vương bá thị quyền ([8])
Làm cho bốn biển không yên
Quốc gia dân tộc truân chiên,([9]) khổ sầu.
(. . .)
Đạo Thầy chỉ con đàng nhân ái
Con đàng chung thế giới cùng đi
Con đàng bác ái, từ bi
Trăm năm Âu Á Úc Phi Mỹ hòa.
Năm châu nhận một Cha Thượng Đế
Người người đều tử tế thương yêu
Bốn phương nhân loại mỹ miều
Chén cơm manh áo ít nhiều hưởng chung.
Thiên hạ được thung dung nhàn rỗi
Không tạo duyên gây rối, ác tâm
Một đường không sợ sai lầm
Nghĩa nhơn ([10]) hiển hiện, sắt cầm đúng dây.([11])
(. . .)
Ai còn lo chủ trương cứu thế
Phải dừng chơn mà để xét suy
Cho rành nhĩ ngã,([12]) thị phi ([13])
Ta đi đường ấy, người đi đường nào?
Đường dân tộc đồng bào, đường phải
Thì nhơn gian có trái hay không?
Nếu ta xướng thuyết đại đồng ([14])
Đại đồng, xương máu có chồng lẫn chăng?
Còn chồng lẫn còn tăng giai cấp
Còn lợi mình là lấp lợi người
Còn làm bên khóc bên cười
Thì sao phải đạo cứu đời hiện kim.([15])
Các đệ đã không tìm mà gặp
Các đệ tu, bồi đắp thân tâm
Đuốc hồng, cờ bạch tay cầm
Khua chuông giục trống rầm rầm gọi nhau.
Đi trước dẫn người sau rập bước ([16])
Đi sau đưa kẻ trước đến nơi
Đưa nhau để kịp bước đời
Long Hoa tùng lịnh Phật Trời chuyển luân.
Ai ưng, ai lại chẳng ưng?
Thôi, các đệ coi theo thánh ý mà hành sự. Nghỉ ngơi rồi tiếp giá. Bần Đạo chào và ban ơn.
TÁI CẦU
NGỌC trong đá trắng, thánh trong người
HOÀNG lệnh Thầy truyền chớ dể ngươi ([17])
THƯỢNG đạt phải lo ra gánh đạo
ĐẾ tâm chuyển pháp dựng xây đời.
Thầy mừng các con.
Mỗi một bước là một lần tiến lên. Càng tiến lên bao nhiêu lại càng thấy cơ mầu nhiệm che khuất sau bao bức màn u ẩn. Các con phải tự khoát lấy ([18]) mà tìm. Càng tìm được những pháp linh mỗi nơi, chìa khóa mở lần các then chốt huyền vi, càng thấy mầu nhiệm vô cùng. Nhưng có điều, các con vì còn nặng nghiệp vô minh,([19]) giả cảnh hằng câu nhử, hằng lừa gạt, hằng cám dỗ, xúi giục lòng mê muội mà không mạnh bước theo Thầy.
Thầy có tiếc gì mà không trao chìa khóa cho các con mở cửa huyền quan, mở cơ mầu nhiệm. Ngặt vì con tâm phàm còn nặng, thân tục còn dày, công đức chưa bồi, công phu chưa gắng. Nếu Thầy có giao cho chìa khóa kia, thì con lại được gì, mà quyền công bình Tạo Hóa Thầy nỡ để vào đâu?
Vậy các con phải tùy nguyện lực mà tu, phải do nguyện lực mà hành. Thầy hứa sẽ độ các con đến nơi chánh giác.
Thầy đã nói: Thầy phế Ngọc Kinh quyết đến trần gian độ tận các con,([20]) đem các con trở lại cùng Thầy. Mà Thầy còn phải hạ mình cho các con cao hơn Thầy một bực. Lòng từ bi của Thầy vô ngằn vô tận. Thầy luôn luôn gần gũi các con. Gần các con để hóa độ ([21]) các con lòng phàm nên thánh, tâm tục hóa tiên.
Lòng các con còn ô uế. Thân các con còn trược bẩn. Nghiệp thức các con còn nặng nề. Nếu các con không sớm gia công ([22]) tu luyện, thì ngày Long Hoa Thầy đáng tiếc cho các con lắm lắm đó, con ạ!
BÀI
Đời như lượn sóng chập chờn
Chiếc thuyền không lái lơn tơn giữa vời.([23])
Thầy mở Đạo nhằm thời mạt kiếp ([24])
Thầy đem con lại hiệp cùng Thầy
Chỉ cho thấy cuộc vần xây ([25])
Lợi danh ảo ảnh bèo mây thế thời.
Cho con biết cơ Trời thay đổi
Cho con hay tội lỗi mà ra
Vì đâu xáo thịt nồi da
Vô minh tạo nghiệp, ta bà ([26]) đắm mê.
Con muốn sớm quay về cửa đạo
Giờ con lo cải tạo thân tâm
Giới quy, công hạnh ít năm
Luyện hình tu tánh cao thâm rõ ràng.
Thầy cho hay sẽ lập pháp y theo bài xưng tụng Ngọc Hoàng, nghĩa là từ chữ Đại La đến chữ Hựu Tội Đại Thiên Tôn.
Các con, thời kỳ nầy Thầy sẽ trao truyền cho bài học đó mà luyện pháp, hành pháp. Thầy sẽ cho Quan Âm giải rõ Lý, Khí, Hình theo số học và đại số học để sau các con áp dụng về hình thái tổ chức và thiên văn, toán số; sẽ cho Lý Bạch đến nói về lý học vũ trụ tạo hình, và cho Quan Thánh đến nói về tâm pháp, tướng pháp. Các con gắng công sẽ được đắc nhiều. Tâm pháp ở trước mắt các con, con chưa hề thấy được.
Tứ đại bộ châu ([27]) chia ra bốn hình, hình lập phương.([28]) Quan Âm sẽ giải cho các con thấy pháp lập Tam Đài và bốn cơ quan Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế, và Tòa Đạo.
Vậy các con cẩn ngôn, vô niệm mà đợi lịnh.
Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.
PHỤ ĐÍNH:
Giải nghĩa bài thơ xưng danh
Liễu nhứt hoàn lai xuất nhị nhơn
Hoàng ly ngọc bệ ([29]) độ sanh hồn
Thiên khai nhất đạo quy Tam Giáo
Nhơn nhập sơn kỳ ([30]) luyện thánh đơn.
了一還來出二人
皇離玉陛度生魂
天開一道歸三教
人入山其煉聖丹
Câu 1: Liễu nhứt hoàn 了一還: Hoàn trả chữ nhứt cho chữ liễu thì được chữ tử . Lai xuất nhị nhơn 來出二人: Chữ Lai bỏ ra ngoài hai chữ nhơn thì còn chữ mộc . Chữ mộc hợp với chữ tử thành chữ.
Câu 2: Hoàng ly ngọc 皇離玉: Chữ hoàng lìa khỏi chữ ngọc thì còn chữ Bạch .
Câu 3: Thiên khai nhất 天開一: Chữ thiên bớt đi chữ nhứt thì còn chữ Đại .
Câu 4: Nhơn nhập sơn 人入山: Chữ nhơn () thêm vào chữ sơn thì ra chữ Tiên .
Bài thi xưng danh chiết tự là LÝ BẠCH ĐẠI TIÊN.
Bài thơ tạm dịch nghĩa như sau:
Được một rồi thì xuất hiện nhị xác thân.
Ngọc Hoàng rời bệ ngọc (xuống trần) độ chúng sanh.
Trời mở một đạo (tôn giáo) quy nguyên Tam Giáo.
Người vào núi, sẽ luyện thuốc thánh.


([1]) Chiết tự bài thi xưng danh là Lý Bạch Đại Tiên. Xem Phụ Đính cuối bài thánh giáo này.
([2]) phấn tâm 奮心 (ardent): Hăng hái.
([3]) trượng phu 丈夫 (respectful man of talent): Bậc tài trai có khí tiết, đáng kính trọng.
([4]) công nghiệp 功業 (achievement, outstanding work, glorious deed): Công lao và sự nghiệp.
([5]) nhơn gian 人間 (the human world): Cõi người ta.
([6]) công trình 功程 (skill and long-time effort): Sự khéo léo và công sức khó nhọc trong thời gian dài. Cùng nghĩa công phu.
([7]) can qua 干戈 (war): Chiến tranh.
([8]) thị quyền 示權 (showing off one’s power): Phô trương sức mạnh.
([9]) truân chiên 屯邅 (difficulties): Vất vả, khổ sở.
([10]) nghĩa nhơn 義仁 (righteousness and benevolence): Nghĩa là điều đúng đắn, lẽ phải, mà người ta không thể không làm. Nhơn là lòng thương người thương vật.
([11]) sắt cầm 瑟琴: Đàn cầm (bằng gỗ ngô đồng, năm dây, đầu đời Chu thêm hai dây thành bảy dây) và đàn sắt (Phục Hy chế ra có năm mươi dây, về sau Hoàng Đế bớt đi còn hai mươi lăm dây). sắt cầm đúng dây: Ý nói cuộc sống được hài hòa (in harmony).
([12]) nhĩ ngã 你我 (you and I): Anh và tôi. Ở đây có nghĩa ta và người (self and others).
([13]) thị phi 是非 (right and wrong): Đúng sai, phải trái.
([14]) đại đồng 大同 (great harmony): Đại là lớn (great); đồnghòa (harmony). Đại đồng là cả thế gian cùng sống vui, hòa hiệp với nhau, không tranh cạnh.
([15]) hiện kim 現今 (now, nowadays, modern): Thời nay, hiện nay.
([16]) rập bước (following): Bước theo, nối gót.
([17]) dể ngươi (khinh thị 輕視: disrespecting): Coi thường, không nể, không sợ.
([18]) khoát lấy (drawing a curtain aside): Vén lấy “bức màn u ẩn” đang che khuất cơ mầu nhiệm.
([19]) vô minh 無明 (ignorant): Ngu dốt, tối tăm, không hiểu biết.
([20]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.
([21]) hóa độ 化度 (converting sb to self-cultivation): Đưa người vào đường tu hành.
([22]) gia công 加功 (trying hard, attempting): Cố gắng, nỗ lực, ra sức.
([23]) giữa vời: Giữa vùng nước mênh mông.
([24]) mạt kiếp 末劫 (the last kalpa): Cũng gọi là hạ nguơn (nguơn điêu tàn, nguơn tái tạo). Thời kỳ cuối cùng của một đại chu kỳ vũ trụ sau khi đã qua hết thượng nguơn (nguơn thượng đức, nguơn tạo hóa: the first kalpa) và trung nguơn (nguơn thượng lực, nguơn tranh đấu: the second kalpa).
([25]) vần xây: Xoay vần, luân chuyển.
([26]) ta bà (sa bà) 娑婆 (the world): Cõi thế gian, nói đủ là ta bà thế giới 娑婆世界.
([27]) tứ đại bộ châu 四大部洲: Gọi tắt tứ châu, gồm có Đông Thắng Thần Châu 東勝身洲 ở phương Đông, Nam Thiệm Bộ Châu 南贍部洲 ở phương Nam (là địa cầu), Tây Ngưu Hạ Châu 西牛賀洲 ở phương Tây, Bắc Câu Lư Châu 北俱盧洲 ở phương Bắc.
([28]) lập phương 立方 (cube): Khối vuông, có các chiều dài, chiều rộng và chiều cao bằng nhau.
([29]) ngọc bệ 玉陛 (jade step where the God’s throne is placed): Thềm ngọc, nơi đặt ngai Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.
([30]) kỳ : Sẽ.
Huệ Khải chú thích
Lê Anh Minh hiệu đính
Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2020