Thứ Ba, 29 tháng 12, 2020

17. LO TU HƯỞNG LẤY PHƯỚC TRỜI / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Canh Tý (1960)

 

17. LO TU HƯỞNG LẤY PHƯỚC TRỜI

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 15-8 Canh Tý (Thứ Tư 05-10-1960)

THI

BẢO chị em ta sớm trở về

THỌ truyền bí pháp ([1]) luyện đơn khuê ([2])

THÁNH phàm hai nẻo cân đo ([3]) kỹ

NƯƠNG cậy cùng nhau trọn chữ thề.

Bản Nương chào chư quý vị Thiên phong. Chào chư đạo tâm và chị em nữ phái.

Giờ nầy, một dịp hồng ân hiếm được. Toàn đạo tâm nghiêm chỉnh đàn tiền, đón tiếp Cửu Nương ([4]) nương cơ đến hộ triều Đức Từ Tôn Phật Mẫu.

Thanh tịnh. Đọc bài cầu Đức Mẹ.

TIẾP ĐIỂN

DIÊU diêu ([5]) bất động pháp quy căn ([6])

TRÌ chí ([7]) mà tu chỗ giáng thăng ([8])

NHỨT điểm chơn như ([9]) thân vẹn giữ

NƯƠNG Thầy nương bạn, lỗi ăn năn.([10])

DIÊU Cung lòng Mẹ chạnh niềm thương

TRÌ trễ cho nên lỡ bước đường

NHỊ nhứt thế gian no ấm đủ ([11])

NƯƠNG đâu trở lại chỗ Thiên Đường.

DIÊU động ([12]) lòng tham, thánh hóa phàm

TRÌ trì kéo kéo bởi mê ham

TAM Nguơn ([13]) dựng lại,([14]) mau tu học ([15])

NƯƠNG phép quyền trên, chớ biện đàm.([16])

DIÊU Điện chị em những đợi chờ

TRÌ trì hoãn hoãn, dạ thờ ơ

TỨ tam khuyên nhắc, không ghi dạ ([17])

NƯƠNG cậy quyền danh phải tối mờ.([18])

DIÊU diêu cõi thọ chị em chờ

TRÌ thủ tu hành chớ để lơ

NGŨ giới tam quy rèn tập mãi

NƯƠNG cùng Hội Thánh đón huyền cơ.

DIÊU Động Mẹ chờ mấy chị em

TRÌ hành pháp đạo tiến từng phen

LỤC căn ([19]) đừng để vương tình ái

NƯƠNG thế rồi ra phải tỵ hiềm.([20])

DIÊU Đài cảnh cũ chị em ơi

TRÌ hoãn rồi ra phải mất rồi

THẤT bửu kim đơn Thầy đã chỉ ([21])

NƯƠNG theo Thần Khí ráng vun bồi.

DIÊU động lòng rồi lạc hậu thiên

TRÌ trì khó độ, nặng tiền khiên ([22])

BÁT môn trận địa ra vào khéo ([23])

NƯƠNG cậy thần thơ thấy diệu huyền.

DIÊU động từ nơi một khí sanh

TRÌ tu bát quái hóa năm hành

CỬU Thiên khai tạo sanh muôn vật

NƯƠNG ở Đạo huỳnh ([24]) hỗn nhứt danh. ([25])

Cửu Nương Chư Thánh ngự bút mừng lễ tấn tôn.([26]) Chúc Thiên phong, chức sắc đạo tràng thành công trên đường tu thân giải thoát.

Giờ nầy có Đức Mẹ ngự lâm, chư Thiên phong và đạo tràng chỉnh tu cân phục ([27]) để đón mừng Đức Từ Tôn cho được trọng thể.

Chư Thánh chúng tôi xuất cơ hầu Giá.([28])

TIẾP ĐIỂN

Mẹ mừng các con.

VÔ tâm ([29]) thì được nhận hồng ân

CỰC Mẹ vì con đã mấy lần

TỪ đó đến nay chưa gắng chí

TÔN quyền trọng pháp ([30]) mới yên thân.

Mẹ miễn lễ. Các con ngồi tọa thiền theo pháp,([31]) để thần tại Khí Hải ([32]) mà nghe Mẹ dạy.

BÀI

Hôm nay các trẻ về đây

Đón mừng Đức Mẹ, xin Thầy gia ân.([33])

Mẹ nhìn con muôn phần thương xót

Mẹ dạy con đã trót nhiều năm

Lòng con như mối tơ tằm ([34])

Gỡ ra cho được bao lăm ([35]) mới rồi.

Nầy các con ráng ngồi nghe dạy

Để rõ ràng trái phải mà theo

Chuyện đời con cứ leo đeo ([36])

Đường tu giải thoát không trèo khó sang.

Từ thuở lập Liên Đoàn Nữ Phái ([37])

Từ ngày con triều bái thọ phong

Trông con như nước lộn dòng

Tình hình nội bộ nhiều lòng nọ kia.

Nay Mẹ giáng canh khuya chỉ dạy

Khuyên các con sớm phải nghe lời

Rửa tay phủi sạch bụi đời

Lo tu hưởng lấy phước Trời dài lâu.([38])

Con có tu, con đâu có khổ

Con có tu, có chỗ Mẹ dành

Con tu, quả đạo con thành

Con nương quyền pháp, con lành tấm thân.

Con nghe Mẹ, lần lần giải thoát

Giải thoát rồi cánh hạc nhẹ phơi

Nếu con luẩn quẩn dưới đời

Đến khi ách nước tai trời ([39]) khổ nguy.

Nguy ở thế, A Tỳ ([40]) chẳng thứ

Bởi tội con, nghịch tử ([41]) bất tuân

Tội con như lá trong rừng ([42])

Mẹ thương cũng khó để lòng chở che.

Con nữ phái, con nghe nên giữ

Lỡ qua kỳ ân tứ ([43]) khó tìm

Giữa con chớ có tỵ hiềm

Một lòng một dạ đắp thêm thân hòa.

Muốn xây dựng một Tòa Hội Thánh

Thì nữ nam chia gánh liệu lo

Lời Thầy đã hứa ưng cho

Làm sao trên dưới nhỏ to luận bàn.

Hội Thánh, trước toan mấy việc

Việc nội tình thân thiết cậy tin

Lỗi lầm xúm lại mà xin

Quyết lòng cải hóa trọn gìn thánh ân.

Chư chức sắc quên thân vì Đạo

Xa gần đều hoài bão tư duy ([44])

Đừng còn sớm thị chiều phi ([45])

Làm người hướng đạo gắng ghi trọn tình.

Đoàn giáo chức, giáo sinh xây dựng

Có người rồi quy chuẩn ([46]) được nêu

Tinh thần thường bữa thường khêu

Cho cao đạo hạnh, cho đều chí tu.

Các con đổi thế trụ thiền.

Mẹ hôm nay đến chỉ chứng lòng và ban ơn. Ơn đã đến cho từng mỗi con. Nếu mỗi con biết, con đưa tay mà đón thì phước huệ sẽ dồi dào, mọi việc con làm không có gì khó cả.

Mẹ hôm nay muốn cho nữ phái nơi đây có một quyền pháp lành mạnh để xứng đáng và khỏi uổng công trình xây đắp từ lâu.

Mẹ đã nhiều phen dạy bảo. Một là trong hàng Thiên ân, từ trên đến dưới, đều được tận tụy với nhiệm vụ mình, nương lấy quyền pháp đó mà chen thân, mượn chức trách nầy đặng dễ bề chế ngự lòng phàm, tiện phần lập công tu học. Các con nhờ chức vụ được gắn mà dễ bề gần Thầy được đạo. Các con cố giữ nó cho còn thì đời con trở nên tốt đẹp, thân con không bị trần lỗ,([47]) xấu xa. Con nhờ đó làm bùa hộ mạng, làm phép tiêu oan.([48]) Ngày nào con tự bỏ nó ([49]) ra là ngày đó lần lần con sẽ đi xa ngoài đạo pháp mà gần với ma tà tội lỗi. Nếu con nào chưa thọ pháp thượng thừa thì cũng phải cần có một chức vụ mà tu. Điều ấy cần cho các con lắm.

Đứa nào có chức vụ rồi, mà lười nhác thối thác, thật là đen tối vô cùng. Đã được ơn Trời cho, hay Hội Thánh gắn vào thì ráng giữ. Không đi hành đạo được thì ở nhà mà giữ lấy giới đó đặng tu. Nếu con nào buông ra thì quyền pháp không còn ngự.

(. . .)

Mẹ ban ơn lành mỗi con, ban bố quyền uy khắp trong Giáo Hội. Mẹ mong sao mỗi con sống mãi ở lòng Mẹ để con được bình an và nhiều hạnh phúc.

Mẹ chứng lòng và ban ơn những con có mặt nơi đây.

Mẹ thăng.



([1]) bí pháp 秘法 (secret method of inner self-cultivation): Phương pháp tu luyện chỉ truyền riêng cho người được tuyển chọn, không truyền dạy rộng rãi.

([2]) đơn khuê, đan khuê 丹圭 (elixir of immortality; fig., inner self-cultivation practice): Thuốc tiên; nghĩa bóng là tịnh luyện, công phu, thiền.

([3]) cân đo (considering): Cân nhắc, suy xét.

([4]) Cửu Nương 九娘: Tức là Cửu Vị Tiên Nương 九位仙娘, Cửu Vị Nữ Phật 九位女佛; chín vị Tiên Nương (cũng là Phật) nơi Diêu Trì Cung hầu cn Ðức Pht Mu.

([5]) diêu diêu 搖搖 (shaking): Lay động.

([6]) Câu này ý nói: Lay động mà chẳng động là phương pháp trở về gốc cội. – quy căn 歸根 (returning to origin or root): Trở về gốc cội, nguồn gốc. Đạo Đức Kinh, Chương 16, chép: Quy căn viết tĩnh... 歸根 曰靜... Trở về gốc cội gọi là tĩnh lặng. (Returning to origin or root is called stillness). Theo Tiên Học Từ Điển của Đới Nguyên Trường, mỗi lần vòng tiểu chu thiên 小周天 trở về chỗ xuất phát thì gọi là quy căn. Dạy về chỗ diêu diêu bất động, có câu: Ngày đêm trau sửa tánh tình / Giữ tâm thanh tịnh vẹn gìn đạo cao / Trong ngoài chẳng động đừng xao... (Đại Thừa Chơn Giáo, bài Nhơn Vật Tiến Hóa)

([7]) trì chí 持志 (maintaining one’s will firmly): Giữ vững ý chí.

([8]) giáng thăng 降升 (descending and ascending): Xuống thấp và lên cao. Con người sanh vào cõi trần (hậu thiên) đã đánh mất phần tiên thiên, nói ví von là Càn  Khôn  trở thành Ly  Khảm  (hào hai của hai quẻ đổi chỗ lẫn nhau). Hành giả tu luyện (công phu, thiền) để biến đổi hậu thiên trở lại tiên thiên, tức là làm cho Khảm Ly trở lại Khôn Càn (xem Đại Thừa Chơn Giáo, bài Nhơn Vật Tiến Hóa), cũng gọi là chiết Khảm điền Ly, để cho quẻ Khảm biến thành Khôn, quẻ Ly biến thành Càn. Tiên Học Từ Điển của Đới Nguyên Trường giảng rằng một điểm chơn âm trong cung Ly [hào hai, âm, vạch đứt] giáng xuống cung Khảm; một điểm chơn dương trong cung Khảm [hào hai, dương, vạch liền] thăng lên cung Ly, khôi phục lại Càn Khôn; đây là phép quy căn phục mệnh 歸根復命. Giáng thăng vì vậy còn ám chỉ phép tu luyện (công phu, thiền).

([9]) chơn như, chân như 真如 (tathāta, thusness, suchness, the ultimate nature): Chơn như đồng nghĩa với Như Lai tạng 如來藏 (Tathāgata nature), Như Lai 如來 (tathāgata), như như 如如, pháp thân 法身 (dharma body), Phật tánh 佛性 (Buddha nature), thực tướng 實相 (true form), Thượng Đế tánh 上帝性 (God nature), tự tánh 自性 (own nature)… Chơn như là cái tánh căn bản và phổ quát mà tất cả chúng sanh đều có sẵn (the fundamental universal nature possessed by all the living).

([10]) Câu này ý nói: Nương dựa vào Thầy vào bạn mà tu; nếu có lỗi thì phải ăn năn, sám hối.

([11]) Câu này ý nói: Sống ở thế gian về phần vật chất thì vừa đủ no ấm mà thôi (để dành sức khỏe và thời gian tu học). – nhị nhứt (two and one): Hai và một, ý nhắc tới thành ngữ một vừa hai phải (mức độ vừa phải, vừa đủ: just enough).

([12]) diêu động 搖動 (shaking): Lay động, rung động.

([13]) Tam Nguơn 三元 (the Third Era): Nguơn thứ ba, Hạ Nguơn. Theo Đại Thừa Chơn Giáo, bài Dưỡng Sanh Tánh Mạng, Tam Nguơn gồm: a/ Thượng Nguơn (nguơn Tạo Hóa, gầy dựng càn khôn vũ trụ), nguơn Thượng Đức 尚德 (sùng thượng đạo đức), nguơn Thánh Đức. b/ Trung Nguơn, nguơn Thượng Lực 尚德 (sùng thượng vũ lực, sức mạnh), nguơn Tranh Đấu. c/ Hạ Nguơn, nguơn Điêu Tàn, mạt kiếp, tiêu diệt hết những xấu xa để phục hưng đạo đức, nên cũng là nguơn Tái Tạo (Reconstructing Era).

([14]) dựng lại (tái tạo 再造: reconstructing): Xây dựng lại; tính chất của nguơn thứ ba (hạ nguơn).

([15]) mau tu học: Để khỏi bị loại bỏ trong Hội Long Hoa, đủ điều kiện được chuyển sang nguơn Thánh Đức.

([16]) biện đàm 辯談 (disputing): Tranh cãi, lý sự, tranh luận.

([17]) Câu này ý nói: Ba phen bốn lượt khuyên dạy, nhắc nhở mà vẫn không chịu ghi nhớ vào lòng.

([18]) Câu này ý nói: Dựa nương theo quyền thế và danh vọng để nhờ cậy thì tâm linh đành chịu u tối.

([19]) lục căn 六根: Sáu căn (the six senses) gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ (eyes, ears, nose, tongue, body, mind).

([20]) tỵ hiềm 避嫌 (avoid meeting due to suspicion): Nghi ngờ nhau mà lánh mặt nhau.

([21]) Câu này ý nói: Thầy đã chỉ dạy phép tu luyện rất quý báu. thất bửu, thất bảo 七寶 (seven precious things): Bảy loại vật quý, gồm vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, hổ phách, san hô (còn có cách liệt kê khác hơn); nghĩa bóng là nói chung những món báu vật. – kim đơn, kim đan 金丹 (immortal remedy; fig., inner self-cultivation method): Thuốc tiên giúp trường sanh bất tử; ám chỉ phương pháp tu luyện thoát luân hồi sanh tử.

([22]) tiền khiên 前牽: Nói tắt nợ tiền khiên (unpaid debt in one’s former life). Tiền là trước; khiên là lôi kéo, vướng vít, ràng buộc, liên lụy. Nợ tiền khiên là nợ do kiếp trước (former life) gây nghiệp xấu, qua kiếp này (this life) bị nó đòi và phải trả.

([23]) Câu này ý nói: Đã vào cõi trần nguy hiểm (ví như vào trận địa bát quái) thì hãy khéo biết tìm cách tu luyện để thoát ra.bát môn trận địa 八門陣地 (the eight-gated front): Mặt trận gồm tám cửa (bát môn) bày theo bát quái mà chỉ có cửa 8 là sống ( sinh môn, cung Cấn); bảy cửa kia là: 1/ Hưu (dừng lại, cung Khảm); 2/ Tử (chết, cung Khôn); 3/ Thương (thương tích, cung Chấn); 4/ Đỗ (chặn lại, cung Tốn); 5/ Trung ương, không có cửa; 6/ Khai (nóng sôi, cung Càn); 7/ Kinh (kinh sợ, cung Đoài); 9/ Cảnh (cảnh ngộ, cung Ly). Như vậy, lọt vào trận này thì nắm chắc bảy phần nguy hiểm, một phần sống sót. Trận địa bát môn ám chỉ cõi trần với muôn hình vạn trạng cảnh giả cám dỗ khiến cho con người điên đảo, khó thoát ra nổi.

([24]) Đạo huỳnh (huỳnh Đạo 黃道: precious Dao): Đạo quý báu. Xem Phụ Đính 1 cuối bài 15.

([25]) hỗn nhứt danh 混一名 (the name of amalgamation): Cái tên hợp nhứt. (Đạo huỳnh, tức đạo Cao Đài, là cái tên hợp nhứt thể hiện qua tiêu ngữ Tam Giáo quy nguyên, Ngũ Chi phục nhất.)

([26]) lễ tấn tôn (tấn tôn chi lễ 進尊之禮: veneration offering ceremony): Lễ dâng lên lòng tôn kính, để bày tỏ lòng tôn kính.

([27]) cân phục 巾服 (turbans and clothes): Khăn đội đầu và y phục.

([28]) Giá (honorific term for Buddha Mother): Tiếng tôn xưng Đức Phật Mẫu.

([29]) vô tâm 無心 (innocent mind): Tâm hồn nhiên, không vướng mắc, không mong cầu điều gì.

([30]) tôn quyền trọng pháp 尊權重法 (respecting the dharma power): Tôn trọng quyền pháp.

([31]) theo pháp: Theo pháp môn tịnh luyện đã học.

([32]) Khí Hải 氣海 (Qi Sea, Sea of Vital Energy): Huyệt nằm dưới rốn 1,5 thốn . Tùy cơ thể mỗi người mà thốn khác nhau. (Bề ngang bốn ngón tay đo ở khớp giữa là 3 thốn. Hoặc co ngón tay giữa, bề dài lóng tay thứ hai (ở giữa) là 1 thốn. Hoặc đo bề ngang ngón cái, chỗ khớp thứ nhất đếm từ trên xuống là 1 thốn.)

([33]) gia ân 加恩 (bestowing favour): Ban ơn.

([34]) Câu này ý nói: Lòng các con rối rắm như tơ vò.

([35]) bao lăm (how much): Bao nhiêu.

([36]) leo đeo (clinging): Đeo đẳng, vương mang, bám víu.

([37]) Liên Đoàn Nữ Phái: Lập tại Trung Châu cuối tháng 10-1938 theo thánh lịnh của Đức Mẹ Diêu Trì. Thành phần lãnh đạo gồm có: Chánh Hội Trưởng (tiền bối Lê Chơn Giác, tức cụ bà Lê Trí Hiển); Phó Hội Trưởng (tiền bối Lê Th Tnh, tức bà Xã Nho); Chánh Thơ Ký (tiền bối Trương Thị Ngc Dung, tức bà Cu Đô); Thủ Bn (tiền bối Phan Th Chuyn, tức bà Chánh Dim, là thân mu Giáo Sư Nguyễn Quang Châu); Nghị Viên (tiền bối Nguyn Th Hiến, tức bà Trn Công Ban); Liên Giao (tiền bối Trần Th Tuyết); Phụ Phó Hi Trưởng (tiền bối Nguyn Diêu Trinh, tức Thanh San, gốc Hội Thánh Minh Chơn Đạo, và tiền bối Võ Th Yến). Cuối năm 1938, thành lập được tám chi đoàn ở thánh tịnh Thanh Quang và bảy thánh thất là Linh Bửu, Nam Trung Hòa, Trung An, Trung Hòa, Trung Quang, Trung Thành, Từ Quang. Về sau, danh xưng Liên Đoàn Nữ Phái đổi thành Tân Nữ Lưu Đo Đức Đoàn. Năm 1941, lại đổi tên là Thanh Xuân Tân Sinh Hot Đoàn, và mỗi đoàn viên gọi là Nữ Thanh Tân.

([38]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([39]) ách nước tai trời (thiên tai thủy ách 天災水厄: calamities from the sky and the sea; fig., calamities in nature): Những thảm họa thiên nhiên như dông bão, sóng thần, lũ lụt, v.v…

([40]) A Tỳ 阿毘 (avīcī): Cũng gọi Vô Gián Địa Ngục 無間地獄 (the Hell of Unintermitted Punishment), là nơi tội nhân bị trừng phạt không hề gián đoạn và không có ngày được thoát khỏi tù.

([41]) nghịch tử 逆子 (unfilial child): Con bất hiếu.

([42]) Câu này ý nói: Tội con nhiều như lá trong rừng, không kể xiết.

([43]) ân tứ 恩賜 (God’s favour, Heaven’s grace): Ơn Trời ban bố.

([44]) Câu này ý nói: Gần xa đều ôm ấp lý tưởng, suy tư về việc đạo. – tư duy 思惟 (thinking): Suy nghĩ.

([45]) Câu này ý nói: Lúc nào cũng một lòng một dạ, không nay vầy mai khác. – thị phi 是非 (right and wrong; praise and criticism). Đúng và sai; khen chê.

([46]) quy chuẩn 規準 (regulation and standard): Quy tắc và chuẩn mực.

([47]) trần lỗ 塵魯: Đồng nghĩa trần lậu 塵陋, không thanh cao, không tốt đẹp. (Đức Mẹ giảng luôn nghĩa chữ trần lỗ khi nói xấu xa liền theo sau.)

([48]) tiêu oan 消冤 (eliminating karmic debts): Tiêu trừ, diệt bỏ oan trái 冤債 (nợ do nghiệp xấu gây ra).

([49]) : Chức vụ được Trời hay Hội Thánh ban trao.


HUỆ KHẢI chú thích - LÊ ANH MINH hiệu đính