Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2022

HƯNG ĐẠO TỔNG LÝ (11-01-1960)

 

XÂY DỰNG ĐẠI ĐỒNG XÃ

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 13-12 Kỷ Hợi (Thứ Hai 11-01-1960)

THI

HƯNG vượng lần ba giải khổ đời

ĐẠO mầu gieo rải tận nơi nơi

TỔNG quy trăm họ ([1]) chung về một

LÝ chánh đường chơn dẫn dắt người.

Bản Thánh chào chư liệt vị Thiên ân.([2]) Chào chư đạo tâm nam nữ.

BÀI

Muốn cho trăm họ thân hòa

Xa gần đều được chung nhà ấm no

Ai giác ngộ toan lo xây dựng

Ai anh minh ([3]) chận đứng tệ đời ([4])

Ai vâng chịu lấy mạng Trời

Tiền phong ([5]) xốc gánh, dẫn người lại quê.([6])

Đời là chỗ sông mê bể khổ

Người quẩn quanh trong chỗ tối tăm

Làm sao khỏi phải mê lầm

Biết lầm sớm tỉnh mà tầm lý chơn.

Kỳ tận độ ([7]) được ơn giáo hóa

Buổi hạ nguơn đại xá ([8]) cho đời

Bốn phương chung hưởng ơn Trời

Sống chung hạnh phúc, chết thời đăng Tiên.([9])

Muốn ai cũng về miền cực lạc

Ai cũng thành Bồ Tát gắng tu

Giải nàn ([10]) nhờ sức công phu

Lập thân hành đạo,([11]) bốn tù ([12]) đừng vương.

Công phu ([13]) tạo con đường giải thoát

Giải thoát rồi thuyền bát nhẹ khơi ([14])

Nhẹ không, lòng chẳng nhuốm đời

Đời người thanh sạch, thảnh thơi thanh nhàn.

Muốn đời được vinh quang hạnh phúc

Muốn thoát ngoài bể dục ([15]) ao sầu

Thì là tỉnh ngộ mau mau

Lập công bồi đức, khổ đau đâu còn.

Trong khu Thánh Vệ ([16]) đều là người háo đức lạc thiện,([17]) ngày tháng vui với đạo mầu, sẵn sàng đem thân phục vụ cho chơn lý, cho chính nghĩa. Lòng người trong khu an lạc địa không cầu danh cạnh lợi,([18]) san đều mức sống, hòa nhịp cùng thiên nhiên, chung một khối thương yêu, lấy sự tu thân làm gốc.

Tu thân để tề gia,([19]) cầu lấy đầm ấm, thảo thuận làm hạnh phúc cho gia đình. Cha mẹ là mẫu mực của con cháu. Anh chị là phép tắc của đàn em. Chồng đính chính,([20]) vợ thuận hòa. Dưới biết kỉnh trên, trên để lòng lo cho kẻ dưới. Sống một cuộc đời tươi đẹp, không một chút sóng gió gợn lên. Gia đình được hòa thuận ấm no. Trong nhà, ngoài vườn sạch sẽ, ngăn nắp. Nghèo cũng thanh cao, giàu không bẩn thỉu.

Tề được nhà mình, còn phải góp phần xây dựng nhà bạn, nhà trong láng giềng, lân lý ([21]) gần xa. Láng giềng, lân hữu([22]) được đồng hóa ([23]) theo con đường tu thân tề gia, thì việc trị quốc, bình thiên hạ cũng chẳng khó gì. Nếu thân chưa tu, nhà chưa tề thì có nước cũng không giữ được, có thiên hạ trong tay cũng khó thể bình.

Vì vậy Đại Đồng Xã ([24]) cần làm sao, bất cứ nữ hay nam, già nua hay trẻ nhỏ, đều uốn nắn con người theo một khuôn phép đạo đức, cách ăn thói ở đều được tốt lành. Lòng mỗi người đều có sẵn một đức tin, một lòng hồi hướng về Thượng Đế. Người người biết tuân nghe quyền pháp, hành động không vượt ngoài khuôn viên đạo đức làm người. Đói cho sạch, rách cho thơm. Tư cách ấy khả dĩ ([25]) tượng trưng cho một người dân trong thánh địa.

Trong xã có chia nhiều đoàn đội để tập thể sống bằng học hỏi, bằng sinh hoạt, bằng cộng sự. Thực hành xây dựng nền tảng. Có trường trại giảng dạy. Có đất đai trồng trọt, làm các vườn hoa thảo, yên dưỡng cho tráng lão, cho ấu nhi, cô nhi. Có nhà tu, dưỡng lão viên, giải thoát viên, an lạc viên, thanh tịnh viên, bảo tích viên,([26]) v.v... Trong lúc đó còn tổ chức đời sống công thương kỹ nghệ tập đoàn, hoặc văn nghệ thể thao. Nếu đầy đủ thì còn nhiều, nhiều lắm trong các công việc xây dựng Đại Đồng Xã.([27])

Bây giờ đây đất đai chật hẹp, người ở cách bức xa xôi, chung trộn trong nhiều dòng tư tưởng, nhiều hạng nhơn dân. Muốn đi đến một xã thành hình phải nhiều công phu,([28]) phải cả một sự cố gắng và phần đông giác ngộ. Mà ở trong cảnh địa như hoàn cảnh thành đạo ([29]) nơi nầy, một đô thành náo nhiệt, người người đương cạnh tranh miếng mồi danh lợi vật chất. Ai ai cũng toan sống để ăn để mặc, để chơi cho mê ly đắm đuối, nghiêng ngả đủ đầy. Sống không nghĩ ngày mai. Sống không tương liên, không dính líu gì với vận mệnh chung về nhà hay về đời.

Toàn bộ đạo hữu ta được nứt nở,([30]) hiện hình một tổ chức, có đoàn thể bảo trợ, có quyền pháp xây dựng, có tổ chức điều khiển an bài,([31]) có Thiên ân giáo hóa dẫn đạo, có toàn đạo cộng sự chung, có thiện gia ([32]) lành mạnh gương mẫu, có hương tộc ([33]) đóng góp sự sống tình thương giữa nhau. Ai cũng tượng trưng một đời đạo đức, một người đạo đức. Đời sống sanh đau già chết là bốn cảnh khổ, mà khổ ấy toàn đạo đều xúm nhau san sớt lẫn nhau.

Việc cưới gả, việc quy liễu là tình đồng đạo. Ai cũng chú ý dựng nên một đời có vợ chồng, rồi có con có cháu. Vợ chồng là hiệp nhau mà làm xong cái sứ mạng ([34]) xây đắp gia đình, đúc nắn một lớp người tương lai. Dòng giống đó được truyền thụ một tinh thần minh lãng,([35]) một dòng máu ấm áp nhiệt thành, một khuôn phép truyền thống nghìn đời cho con.

Vợ chồng nào phải gặp nhau để thỏa mãn tình dục, mà cả một ái tình thiêng liêng bất diệt. Nên trước khi gả con lấy chồng, hay nói vợ ([36]) cho con là phải được một sự dẫn dắt, một sự uốn nắn rèn tập ở khuôn viên gia đình, ở tinh thần của mẹ cha tiêm xạ vào lòng con, ở sự giáo hóa nhà trường, ở các giảng đường dạy đạo.

Vì muốn có một nòi giống tốt đẹp tương lai, có những gia đình kiểu mẫu của xã hội là phải bắt đầu xây dựng, xây dựng đứa con còn trong bụng mẹ. Người mẹ lúc nào cũng tươi tỉnh sáng suốt, đi đứng ngồi nằm được phân minh đính chính. Không nghe điều dữ, không nói chuyện nhảm, không nghĩ điều quấy, không thấy tuồng khiêu khích vô nghì.([37]) Lòng mỗi lúc đều nghĩ đến đứa con sau này, đứa con của quyền năng. Phải hết lòng tu dưỡng trong hồi thai nghén. Khi sinh ra, lúc lớn lên, cha mẹ phải bỏ nhiều công phu, gởi gắm bao nhiêu danh phận sự nghiệp cho con sau này. Đứa trẻ lớn lên, trai cho học gì, gái cho học gì, [là] cả một chương trình xây dựng Đại Đồng Xã.

Việc cải tạo nhà cửa cũng phải công trình ([38]) lắm lắm. Dầu sang giàu hay nghèo khổ, điều ấy không buộc làm y nhau, mà buộc mọi người phải có một ý thức dựng lên gia đình.

Về phần thiêng liêng, đối với tổ phụ ([39]) phải làm sao hằng ngày để hết bổn phận của con cháu. Con cháu thờ phụng tiên linh ([40]) không phải chỉ biết ngày xuân thu kỵ lạp,([41]) hương lửa giữ gìn, mà còn có bổn phận làm cho giống cây gia tộc nảy nở hoa đẹp trái lành, làm cho dòng máu gia tộc được nồng hậu anh minh.

Nếu ông bà ngày xưa có những gương tốt nên soi, công nghiệp ([42]) hậu, ta nên mở mang giữ gìn; bằng [ông bà] chưa danh gì với núi sông, [chưa] ơn gì với con cháu thì cũng [là] một hạt giống đã thành cây, ta có bổn phận bón xới, trông nom cho nhánh được nở, cành được tươi, lấy sức làm cho cây gia tộc được đứng ngang hàng cùng các vườn bách thảo khác, làm cho con cháu nhận định được một sứ mạng của mình, thực hiện xong chương trình mà ông cha làm còn lỡ dở. Muốn vậy, đời mình đã nửa đời, trăm năm nào chắc, [chỉ] còn mong mỏi bầy con lũ cháu sau nầy đi theo con đường của tổ tiên, làm cho tổ tiên đẹp lòng, muôn người trông cậy.

Về tinh thần, còn tế nhị ở chỗ dính líu làm một giữa nòi giống với Thượng Đế quyền năng.

Về hình thức, ý niệm tiền của, nhà cửa, ruộng vườn, ăn mặc và tiêu pha, [là] cả một vấn đề quan trọng, nên thông hiểu được phần đó. Nó tác hại thế nào cho tinh thần, ý chí toàn bộ hay nó trợ trưởng,([43]) thúc đẩy cho tinh thần được nhiều sự ích lợi. Có để làm gì? Có phải sử dụng làm sao? Lòng mình phải nghĩ đến cái thừa, biết đến cái thiếu, hầu ([44]) xây dựng một lập trường lý tưởng trong gia đình.

Về trật tự, vệ sinh, giao tế, hành động, lại cũng [là] một vấn đề cần được học. Nên xây dựng Đại Đồng Xã phải đề cập đến bao nhiêu việc, mà việc trước nhất là làm người có tu thân tề gia.

(. . .)

Thôi, Bản Thánh để lời khuyên và ban ơn lành cho toàn đạo.



([1]) trăm họ (bá tánh 百姓: all people): Muôn dân, mọi người.

([2]) Thiên ân (the recipient of Heaven’s blessing): Người thọ nhận ơn Trời. chư liệt vị Thiên ân: Từ xưng hô trang trọng (ngôi thứ hai) để gọi những vị đang nhận trách nhiệm hoằng giáo.

([3]) anh minh 英明 (brilliant, wise): Khôn ngoan, sáng suốt.

([4]) tệ (harm, detriment): Điều xấu, có hại. tệ đời (harm or detriment in the world): Những điều xấu, có hại trong cuộc đời.

([5]) tiền phong 前鋒 (vanguard): Người đi đầu.

([6]) quê (native place; heavenly home): Cố hương , cố quận 故郡, quê nhà, quê cũ; cõi trời.

([7]) tận độ (saving all): Cứu độ hết tất cả.

([8]) đại xá 大赦 (amnesty, general pardon): Tha hết những người phạm tội.

([9]) đăng Tiên 登仙 (ascending to the Immortal world; becoming immortal): Lên cõi Tiên, thành Tiên.

([10]) nàn (disaster, calamity): Nạn , tai nạn, tai họa.

([11]) lập thân 立身 (establishing oneself in life): Làm người đàng hoàng ở đời. Lập thân là tiến trình thực hiện; thân lập 身立 (thân được nên) là kết quả của lập thân. hành đạo (practising Caodai teaching): Thực hành giáo lý Cao Đài.

([12]) bốn tù (the four jail walls, i.e., alcohol, sex, money, and drugs): Nói tắt thành ngữ bốn vách trần tù. Đổtường đều là vách tường. Thế gian có bốn thứ giam hãm con người trong ham muốn và nghiện ngập, khiến con người mất tự do, giống như bị nhốt trong bốn vách nhà tù. Bốn tù (tứ đổ 四堵; tứ đổ tường 四堵牆) là tửu, sắc, tài, khí 酒色財氣 (rượu, sắc dục, tiền bạc, và ma túy).

([13]) công phu 功夫 (practising inner self-cultivation; practising meditation): Ngồi thiền, tu tịnh, tịnh luyện.

([14]) thuyền bát nhẹ khơi (the prajna boat smoothly sailing to the open sea): Thuyền bát nhã nhẹ nhàng ra khơi.

([15]) bể dục (dc hi 欲海: sea of desires): Ham muốn nhiều như biển cả; ham muốn ấy làm người ta đắm chìm cũng như biển cả.

([16]) Thánh Vệ 聖衛 (the Holy Guard): Trong lúc chiến tranh ác liệt vào giữa thế kỷ 20, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài chọn các gia đình đạo hữu sống tại Đà Nẵng lập thành một đoàn thể gọi là Thánh Vệ để bảo vệ Trung Hưng Bửu Tòa tại Đà Nẵng.

([17]) háo (hiếu) đức lạc thiện 好德樂善 (being fond of virtue and happy with goodness): Ưa thích đạo đức và vui với việc lành.

([18]) cầu danh cạnh lợi (seeking fame and striving for wealth): Cầu cạnh danh lợi (bằng cách xin xỏ, quỵ lụy người quyền thế).

([19]) tề gia 齊家 (managing one's family): Quản lý gia đình.

([20]) đính chính 訂正 (righteous, rightful): Đúng đắn, đàng hoàng.

([21]) lân lý 鄰里 (neighbourhood): Vùng lân cận.

([22]) lân hữu (neighbour): Bạn hàng xóm, bạn láng giềng.

([23]) đồng hóa 同化 (assimilating): Làm cho giống nhau.

([24]) Đại Đồng Xã 大同社 (Society of Great Harmony): Trong lúc chiến tranh ác liệt vào giữa thế kỷ 20, bổn đạo chạy loạn đổ xô về Đà Nẵng rất đông. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài tập hợp tín hữu tản cư lại và tổ chức thành Đại Đồng Xã để chăm sóc đời sống và hướng dẫn tâm linh. Khi chiến tranh lắng dịu, tín hữu trở về quê cũ, Đại Đồng Xã vì thế không còn nữa. Vị trí của Đại Đồng Xã sau này trở thành thánh thất Trung Đồng, tại số 170 đường Trường Chinh (quốc lộ 1), quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

([25]) khả dĩ 可以 (can, being able to): Có thể.

([26]) viên (garden, park): Vườn trồng trọt, chỗ để ngoạn cảnh hay để nghỉ ngơi. bảo tích viên: Tạm đoán nghĩa là công viên bảo tồn di tích lịch sử nhà đạo 保跡園 (Caodai relic park).

([27]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([28]) công phu 功夫 (skill and long-time effort): Sự khéo léo và công sức khó nhọc trong thời gian dài. Cùng nghĩa công trình.

([29]) thành đạo: Đơn vị hành chánh của đạo bao gồm các tín đồ trong cùng thành phố. (Ở xã gọi là xã đạo, ở quận là quận đạo, ở tỉnh là tỉnh đạo.)

([30]) nứt nở (sprouting, developing): Nảy nở, phát triển.

([31]) an bài (arranging): Sắp đặt đâu vào đấy cho ổn định.

([32]) thiện gia 善家 (good family): Tín đồ còn được Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài gọi là thiện dân 善民 (good citizen). Gia đình của thiện dân gọi là thiện gia.

([33]) hương tộc 鄉族: Phải chăng là cấp xã đạo?

([34]) sứ mạng 使命 (mission): Lệnh sai phái và phải làm xong.

([35]) minh lãng 明朗 (bright and cheerful): Trong sáng và hân hoan.

([36]) nói vợ: Hỏi vợ.

([37]) vô nghì (vô nghĩa 無義: immoral): Không có lễ nghĩa, không có đạo đức.

([38]) công trình 功程 (skill and long-time effort): Sự khéo léo và công sức khó nhọc trong thời gian dài. Cùng nghĩa công phu.

([39]) tổ phụ 祖父 (grandparents and parents): Tổ phụ là ông nội. Ở đây nên hiểu là gồm cả ông bà nội ngoại và cha mẹ.

([40]) tiên linh 先靈 (ancestors’ spirits): Linh hồn tổ tiên.

([41]) kỵ lạp (observing an ancestor's death anniversary): Cúng giỗ, giỗ quải. xuân thu 春秋 (spring and autumn; fig., a year): Một năm. xuân thu kỵ lạp (observing ancestors’ death anniversaries every year): Cúng giỗ hằng năm.

([42]) công nghiệp 功業 (achievement, outstanding work, glorious deed): Công lao và sự nghiệp.

([43]) trợ trưởng (helping development): Giúp cho lớn mạnh.

([44]) hầu (in order to, so as to): Ngõ hầu, để mà.


HUỆ KHẢI chú thích - LÊ ANH MINH hiệu đính