Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2022

TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG (20-01-1939)

Thánh giáo

GÁNH GỒNG NHIỆM VỤ, ĐÓ AI ƠI!

Thánh thất Trung Thành (Đà Nẵng)

01-12 Mậu Dần (Thứ Sáu 20-01-1939)

THI

Mừng vui chi xiết nỗi mừng vui

Trước cửa lằn nhang phảng phất mùi ([1])

Kíp chuyển cơ linh truyền thánh chỉ ([2])

THÀNH HOÀNG BỔN CẢNH Lão chào lui.([3])

Khá thành tâm nghiêm đàn tiếp lịnh Đại Thánh. Ta lui.

TIẾP ĐIỂN

TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG

Chào chư Thiên mạng,([4]) chư chúng sanh.

THI

Canh tàn giờ lụn mải thì thôi ([5])

Liệu bảy lo ba cũng chửa rồi ([6])

Lo nỗi nhà xiêu, tường cột ngã ([7])

Gánh gồng nhiệm vụ, đó ai ôi! ([7bis])

Than ôi! Lượn sóng kim tiền ([8]) từ Đại Tây Dương, Thái Bình Dương bổ dội, làm cho năm châu lay động, bốn bể gập ghềnh; non sông bờ cõi sắp đến cuộc đổi dạng thay hình, cỏ cây nhuộm máu phai màu, núi sông vùi thây ([9]) thành bãi...

Than ôi! Cũng chỉ vì người xa đạo đức, đạo đức thất chơn truyền, đem ý phàm mà canh cải mạng Thiên, khéo đặt bày duy tân diệt cổ.([10])

Hỡi ôi! Đời đến thế, thế phải toan phương liệu chước.([11]) Phương nào chước nào mà chống lại? Thời gian, hoàn cảnh sắp đến cuộc điêu tàn ([12]) đây rồi!

Hữu phước hữu duyên đồng bào ta, nhân loại ta còn một cơ hội rất may mắn, rất quý báu nữa là:

Nam bang phục khai chơn đạo;

Ngọc Đế tận cứu quần sinh.([13])

Nhân loại ôi! Đồng bào ôi! Còn một Kỳ Ba đại xá là Tam Kỳ Phổ Độ khai hội Long Hoa. Nếu chẳng lo hướng thiện hồi đầu,([14]) một kiếp chót nữa khó mà muôn ngàn năm gặp đặng.

Thế thì cậy ([15]) nơi đạo đức lập thành tôn giáo. Tôn giáo có quy củ chuẩn thằng ([16]) còn phải tương đối ([17]) với nhân loại, với thời kỳ. Tất nhiên phải tổ chức cho có cơ quan;([18]) đó là bước hành trình để công khai tôn giáo.

Hỡi ôi! Thế mà trong kỳ lập Đạo đến nay, vạn sự khởi đầu chỉ là một mặt phổ thông giáo lý mà thôi, chưa hề nói đến cơ quan, tổ chức. Đến nay là thời kỳ phải làm, chẳng còn chờ đợi chi nữa! Nông Viện, Học Viện, Nữ Phái Liên Đoàn, Phổ Thông Giáo Lý...

(...)

Hỡi ôi, nhân tài khiếm khuyết, trăm phần khó! Ôi! Ai là kẻ ưu thời mẫn thế?([19]) Ai là người cứu tế ([20]) nhơn sanh?

THI

Thế cuộc đương cơn sắp loạn ly

Hỡi Trung, Nam, Bắc cả ba kỳ! ([21])

Ai người mẫn thế ưu thời đó

Gánh nặng oằn vai chẳng quản chi?

BÀI

Chuyển ngọc bút linh cơ bố điển

Giáng đàn trung, vận chuyển huyền quang ([22])

Dạy cho phận sự rõ ràng

Dạy cho đẳng đẳng linh tàn biết noi.([23])

 

Noi thánh huấn, học đòi ([24]) thánh huấn

Học Thiên cơ, biết thuận Thiên cơ

Than ôi! Lặng lẽ như tờ ([25])

Canh tàn đèn lụn, bơ thờ lời châu.([26])

 

Dạy vài câu, vài câu cho hãn ([27])

Hãn cơ Trời, ai đoán thử coi?

Máy linh rày đã ló mòi ([28])

Ló mòi vận chuyển ra ngoài năm châu.

 

Âu, Úc, Mỹ, đứng đầu châu Á

Lập Đạo Trời truyền bá nhân gian

Hai mươi lăm triệu linh tàn

Tiên Rồng con trước, Hồng Bàng cháu sau.

 

Non sông đã khoe màu cẩm tú ([29])

Làm sao cho bần phú tương tư ([30])

Đừng cho bất túc, hữu dư ([31])

Đại đồng xã hội lao tư tương phò.([32])

 

Làm sao đặng ăn no mặc ấm

Làm sao cho Đạo thấm vào tâm

Làm sao ai kiếm ai tầm

Ai chèo ai chống, ai nằm mà coi?

 

Coi cái cuộc có mòi trở trắc ([33])

Gà cùng nhau bôi mặt đá chơi

Đá chơi cho biết mùi đời

Đá chơi hỏi thử cơ Trời định sao.

 

Sao cho đặng bước vào cơ hội

Sao làm sao chuộc tội mình gây

Làm sao mà đặng về Thầy

Làm sao mà đặng phương Tây tìm về? ([35])

 

Sớm Bồng Lai, tối về bửu động ([36])

Mặc tình ai dù lọng nghinh ngang

Lắm cười rồi cũng lắm than

Lắm khi phú quý, cơ hàn lắm khi.

 

Trí phải tri, trí tri thời vận ([37])

Tri Tam Kỳ mạt tận Thiên cơ

Một năm, một tháng, một giờ

Có ai mà đợi mà chờ ai đâu?

À! Trung Quang ([38]) có dâng mật cáo xin liễn thờ.([39]) Đây Lão cho:

Ngọc Đế chưởng Tam Kỳ; Nam, Bắc, Đông, Tây hưng chánh đạo;

Cao Đài quy vạn pháp; Thích, Nho, Gia, Lão thống chơn truyền.([40])

Thôi, Lão chào chư vị. Lão lui.

PHỤ ĐÍNH

1. Thành Hoàng Bổn Cảnh 城隍本境 (Patron Deity of This Locality)

1.1. Thành là vòng tường thành (wall) bao bọc một thành phố hay lâu đài. Hoàng là hào nước sâu (moat) vây bên ngoài vòng tường thành. Như vậy có hai lớp bảo vệ thành phố hay lâu đài. Đời Đông Hán, trong bài tự Lưỡng Đô Phú 兩都賦序, sử gia Ban Cố 班固 (32-92) viết về việc phòng vệ này như sau: Tu sửa cung thất ở kinh đô, đào sâu hào xung quanh thành. (京師修宮室, 浚城隍. Kinh sư tu cung thất, tuấn thành hoàng.)

1.2. Thành Hoàng là vị Thần phổ biến trong tín ngưỡng Nho Giáo và Lão Giáo Trung Hoa. Người Hoa còn gọi Thành Hoàng là Thành Hoàng da 城隍爺 (ông Thành Hoàng). Da là từ gọi Thần Thánh, thí dụ: Lão Thiên da 老天爺 (ông Trời Già); Tài Thần da 財神爺 (ông Thần Tài). Tục thờ Thành Hoàng liên quan đến sự thành lập, phát triển của một địa phương và cầu xin Thần linh che chở cho địa phương ấy. Các vị Thành Hoàng phần lớn là danh thần, anh hùng, người có công đức to tát tại địa phương nên được dân địa phương phụng thờ sau khi các vị qua đời.

Nói về tục thờ Thành Hoàng, trong bộ Bắc Tề Thư 北齊書 (Mộ Dung Nghiễm Truyện 慕容儼傳), của Lý Bá Dược 李百 soạn năm 636 (đời Đường), khi chép về lịch sử triều đại Bắc Tề (550-577) có câu: Trong thành trước tiên có mt ch th thn, tc gi là thn Thành Hoàng, mi khi có vic công hay tư đều cu cúng. (城中先有神祠一所, 俗號城隍神, 公私 每有祈禱. Thành trung tiên hữu thn t nht s, tc hiu thành hoàng thn, công tư mỗi hu k đảo.)

Tục thờ cúng Thành Hoàng ở Trung Hoa sắp đặt có quy củ từ thời Nam Bắc Triều (420-589). Đời Nguyên (1279-1368) phong Thành Hoàng là Hựu Thánh Vương 佑聖王 (Thánh Vương Phù Hộ). Đầu đời Minh (nửa sau thế kỷ 14) phong tước cho Thành Hoàng khắp nước theo bốn bậc (vương , công , hầu , ) để mỗi khi cúng tế hằng năm thì tùy theo phẩm tước mà vị chủ tế là vua, hay quan phủ, quan châu, quan huyện.

1.3. Ở Việt Nam, Thành Hoàng được thờ trong đình làng, danh tánh và lai lịch có thể được biết rõ hay mơ hồ, không ai biết (vì vậy không có tượng thờ). Nhiều vị Thành Hoàng được gọi tên theo tên làng (thí dụ: Thành Hoàng làng Mỹ Lộc) hoặc gọi chung chung là Thành Hoàng Bổn Cảnh. Hai chữ bổn cảnh có nghĩa là cảnh vực, khu vực tại địa phương này (this locality), tức là vùng đất vị Thành Hoàng được thờ (theo thánh chỉ của Thượng Đế hay chiếu chỉ của vua) và Ngài có phận sự che chở cho dân trong vùng. Một số nơi gọi lầm Thành Hoàng ra Thần Hoàng.

1.4. Trong Thánh Truyền Trung Hưng, có bốn vị Thành Hoàng Bổn Cảnh đến báo đàn tại bốn nơi như sau: a/ Thánh tịnh Đại Thanh (Gò Vấp), ngày 01-8 Giáp Tuất (Chủ Nhật 09-9-1934); b/ Thánh thất Trung Thành (Đà Nẵng), ngày 01-12 Mậu Dần (Thứ Sáu 20-01-1939); c/ Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng), ngày 20-01 Canh Tý (Thứ Ba 16-02-1960); d/ Thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận Tư, Sài Gòn), ngày 04-3 Quý Mão (Thứ Năm 23-8-1963).

2. Ba kỳ (tam kỳ 三圻: three territories)

Tức là Bắc Kỳ 北圻, Trung Kỳ 中圻, Nam Kỳ 南圻, theo chánh sách chia để trị của thực dân Pháp sau khi đã thôn tính 吞併 trọn vẹn nước Nam. Nước Việt thời xưa chẳng bị chia cắt ra ba kỳ như trong thời Pháp thuộc. Thật vậy, dưới triều Minh Mạng thì phủ Thừa Thiên là kinh kỳ, tức là nơi vua đóng đô (kinh là kinh đô: capital) và những vùng đất chung quanh kinh đô (kỳ : territories around the capital). Lãnh thổ ở phía bắc kinh kỳ gọi là Bắc Kỳ 北圻(), ở phía nam kinh kỳ gọi là Nam Kỳ 南圻(); hai ch dùng thông vi nhau. Bấy giờ chưa có tên gọi Trung Kỳ. Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên 大南寔錄正編 (đệ nhị kỷ, quyển 127) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, năm 1834 triều đình gọi Quảng Nam, Quảng Ngãi là Nam Trực; gọi Quảng Trị, Quảng Bình là Bắc Trực; từ Bình Định đến Bình Thuận gọi là Tả Kỳ; từ Hà Tĩnh đến Thanh Hoa (năm 1843 đổi tên thành Thanh Hóa) gọi là Hữu Kỳ; từ Biên Hòa đến Hà Tiên gọi là Nam Kỳ; từ Ninh Bình đến Lạng Sơn gọi là Bắc Kỳ. Bốn tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Bình gọi chung là Tứ Trực. Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên (đệ nhị kỷ, quyển 143), năm 1835, triều đình lại gọi Quảng Trị, Quảng Bình là Hữu Trực; gọi Quảng Nam, Quảng Ngãi là Tả Trực; gọi Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoa là Hữu Trực Kỳ; gọi Bình Định, Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hòa là Tả Trực Kỳ.

Huệ Khải chú thích Lê Anh Minh hiệu đính



([1]) trước cửa: Trước cửa thánh thất. lằn nhang (a thread of incense smoke): Làn khói nhang; sợi khói nhang. phảng phất (wafting up in the air): Phưởng phất; thoang thoảng; nhè nhẹ chứ không nồng đượm.

([2]) kíp (cấp : urgent, urgently): Gấp, vội, không chậm trễ. thánh chỉ 聖旨 (holy edict; God’s edict): Chiếu chỉ 詔旨 của Thượng Đế; văn bản truyền lệnh của Thượng Đế.

([3]) Thành Hoàng Bổn Cảnh: Xem Phụ Đính cuối bài thánh giáo này.

([4]) Thiên mạng, Thiên mệnh 天命 (Heaven’s missioner): Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó. Đồng nghĩa Thiên ân sứ mạng (Heaven’s blessed missioner).

([5]) canh tàn giờ lụn: Canh giờ tàn lụn; thời gian đã hết. canh giờ: Tương đương hai tiếng đồng hồ; một ngày có mười hai canh giờ. mải (being absorbed in sth): Mải miết; cứ mảng say mê lo làm một việc gì và không còn để tâm đến các việc khác.

([6]) liệu bảy lo ba: a/ (Nghĩa thông thường) lo liệu, sắp đặt đủ thứ công việc lớn nhỏ cho chu đáo, đâu vào đấy. Ca dao: Một mình liu bảy lo ba / Lo cau đỏ hạt, lo già hết duyên. b/ (Nghĩa trong bài) lao tâm khổ trí mưu cầu tiền tài danh vọng cả đời cũng chưa xong.

([7]) Lo nỗi nhà xiêu, tường cột ngã: Phải chăng ngụ ý rằng việc đáng phải lo là đất nước ngửa nghiêng và nền tôn giáo Cao Đài hãy còn phân hóa?

([7bis]) Tạm mượn câu này làm nhan đề bài thánh giáo.

([8]) kim tiền 金錢 (money): Chữ kim ở đây là kim loại (metal). Phần lớn tiền thời xưa đúc bằng kim loại (đồng, chì, bạc, kẽm); về sau phát minh ra tiền giấy (chỉ tệ 紙幣: paper currency). Tiền giấy Trung Quốc được các thương nhân đời Đường phát minh khoảng năm 800, thường gọi là phi tiền 飛錢 (tiền bay) để tiện giao dịch, rồi được triều đình chấp nhận. Hai chữ kim tiền được dùng với nghĩa là tiền bạc nói chung. lượn sóng kim tiền: Trào lưu hay xu hướng lôi cuốn đông đảo người đời chạy theo lợi ích vật chất, xa lìa những giá trị đạo đức.

([9]) thây (corpse; dead body): Xác người; thi thể 屍體.

([10]) duy tân 維新 (reforming sth; modernising sth): Đổi mới. diệt cổ 滅古 (exterminating ancient traditions or culture): Tiêu diệt, trừ khử các truyền thống hay văn hóa cổ xưa.

([11]) toan phương liệu chước: Toan liệu phương chước; lo liệu phương sách 方策 (strategy) và mưu chước (cơ mưu 機謀: scheme)

([12]) điêu tàn 凋殘 (ruined): Rã rời; tan nát.

([13]) 南邦復開真道: Nhà Nam li khai chánh đạo / 玉帝盡度群: Ngọc Đế cứu hết chúng sanh.

([14]) hướng thiện hồi đầu 向善回頭 (turning back to the good, i.e., being awakened and interested in self-cultivation): Tỉnh ngộ mà quay về đường chánh lẽ phải; thức tỉnh mà lo tu sửa bản thân.

([15]) cậy (depending on sb or sth; relying on sb or sth; counting on sb or sth): Nhờ cậy; nhờ vào; nương vào.

([16]) quy củ chuẩn thằng (rules and standards): Những phép tắc, mẫu mực cần phải theo đúng. Quy, củ, chuẩn, thằng nguyên nghĩa là bốn dụng cụ đo đạc gồm có: a/ Quy là com-pa (compass), dùng để vẽ vòng tròn, hay đo khoảng cách trên bản đồ... b/ Củ là ê-ke (tiếng Pháp: équerre), cây thước vuông (steel square, framing square, carpenter’s square) dùng để đo góc vuông. c/ Chuẩn là thước thăng bằng (level), dùng để kiểm tra mặt phẳng nằm ngang. d/ Thằng (tức thằng mặc 繩墨) là sợi dây thợ mộc căng thẳng giữa hai điểm để lấy lằn mực thẳng (carpenter’s straight line marker). Có thể dùng phấn tẩm vào sợi dây thay cho mực.

([17]) tương đối 相對: Tương ứng 相應; khế hợp 契合; phù hợp 符合 (corresponding to sb). Tiền bối Cao Triều Phát dạy: “Muốn thực hiện thế nhơn hòa mà không dùng ngôn từ của người đời nay, không cùng tâm tư của người đời nay thì mong gì người hiểu được mà ta phổ độ!” (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 11-02 nhuần Ất Sửu, 31-3-1985)

([18]) cơ quan 機關 (an organ; an organization performing a specified function): Một bộ máy hay tổ chức thi hành một chức năng đã xác định rõ. phải tổ chức cho có cơ quan: (Tôn giáo) phải được tổ chức với đầy đủ các đơn vị chức năng hoạt động nhịp nhàng như các bộ phận trong một bộ máy.

([19]) ưu thời mẫn thế 憂時愍世: Lo lắng trước thời thế và thương xót cuộc đời.

([20]) cứu tế 救濟: a/ Dùng tiền bạc, của cải giúp đỡ những người thiếu thốn tiền bạc, thực phẩm, quần áo, v.v... (helping the needy with cash or goods). b/ Cứu độ, cứu giúp nhơn sanh đau khổ trên cả hai phương diện nhân sinh và tâm linh, vật chất lẫn tinh thần.

([21]) ba kỳ: Xem Phụ Đính cuối bài thánh giáo này.

([22]) huyền quang 玄光 (mysterious light): Ánh sáng huyền diệu; thiên điển của các Đấng thiêng liêng.

([23]) đẳng đẳng 等等 (everyone): Hết thảy mọi người. linh tàn: Tàn linh; đảo ngữ cho ăn vần theo luật thơ. tàn linh (leftover spirits): Những linh căn (nguyên nhân 原人) còn sót lại trong số chín mươi hai ức nguyên nhân bị rớt lại (cửu nhị tàn linh 九二殘靈) sau hai kỳ phổ độ. Theo Ngọc Lộ Kim Bàn 玉露金盤 (the Golden Basin of Jade Dew), có chín mươi sáu ức nguyên nhân xuống trần; sau hai kỳ phổ độ (the First and the Second Universal Salvations) chỉ độ được mỗi kỳ hai ức trở về với Đức Diêu Trì Kim Mẫu.

([24]) học đòi (imitating sth): Bắt chước theo; làm theo cho giống.

([25]) lặng lẽ như tờ: Thanh vắng, lặng lẽ, không có tiếng động.

([26]) canh tàn đèn lụn: Đêm tàn (trời gần sáng) và đèn lụn tim (vì cạn dầu). lời châu: Lời châu tiếng ngọc; lời thánh giáo (thánh huấn) truyền từ ngọn cơ. bơ thờ lời châu: (Môn sanh mệt mỏi vì thức khuya hầu đàn nên) không còn tập trung chú ý tới lời thánh huấn.

([27]) hãn (grasping sth; comprehending sth): Hiểu rõ.

([28]) rày (today, now): Nay, lúc này. ló mòi (showing the minutest sign): Cho thấy dấu hiệu nhỏ nhặt, tinh vi. Máy linh rày đã ló mòi: Thiên cơ (máy linh) ngày nay đã được hé lộ chút ít dấu hiệu để con người biết mà thức tỉnh lo tu hành.

([29]) cẩm tú 錦繡 (embroidered brocade; fig., beautiful): gấm thêu; nghĩa bóng là tươi đẹp; đẹp đẽ. cẩm tú giang sơn 錦繡江山 (beautiful country): Nước non tươi đẹp.

([30]) bần phú tương tư 貧富相思 (the rich do not ignore the poor): Người giàu nhớ nghĩ tới kẻ nghèo mà giúp đỡ.

([31]) bất túc 不足 (insufficient; deficiency; not enough): Không đủ; thiếu thốn. hữu dư 有餘 (having an abundance): Có thừa thãi; có dư dật. Đừng cho bất túc, hữu dư: Đừng để trong xã hội có người thì quá giàu và có người lại quá nghèo.

([32]) lao tư 勞思 (the labourer and the intellectual): Người lao đông chân tay và người lao động trí óc. tương phò: Tương phù 相扶 (helping each other; supporting each other); giúp đỡ lẫn nhau; nâng đỡ lẫn nhau. (Nói trại ra tương phò để ăn vần theo luật thơ.)

([33]) có mòi trở trắc: Có dấu hiệu cho thấy sẽ trắc trở (gặp khó khăn, không trôi chảy).

([35]) phương Tây: Cõi Phật; cõi Tiên.

([36]) Bồng Lai 蓬萊: Một hòn đảo có Tiên ở (an island that is the abode of Immortals); nghĩa bóng là cảnh Tiên, cõi tiên, cõi cực lạc, cõi thiên đàng (paradise). bửu động 寶洞 (precious cave): Động báu (nơi Tiên ngự).

([37]) trí tri 致知 (attaining the utmost knowledge): Biết cho rốt ráo; biết cho đến cùng tột. thời vận 時運 (opportunity and destiny): Cơ hội và định mạng.

([38]) Trung Quang: Thánh thất này đã sáp nhập với thánh thất Trung Bình trở thành thánh thất Trung Quang Bình (ở thôn Trung Phước, thị trấn Quế Trung, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam).

([39]) liễn, liên (an antithetical couplet): Câu liễn, câu đối; các chữ viết trên giấy hay vải, khắc trên gỗ, v.v... xếp theo hàng dọc, chữ dưới nối theo chữ trên. Thường viết thành cặp, gọi là đối liên 對聯 hay liễn đối 聯對 (a pair of antithetical couplets), được dán hay treo song song và đối xứng nhau trên bàn thờ (gọi là liễn thờ), hay ở hai cột nhà (gọi là doanh liên 楹聯: couplets on pillars), ở hai bên cửa (gọi là môn liên 門聯: couplets on doors), v.v... Số chữ trong mỗi câu phải bằng nhau; từng chữ trong hai câu đối với nhau (opposite) về thanh (bằng, trắc), ý nghĩa, v.v... Câu đối tết gọi là xuân liên 春聯 (spring antithetical couplets).

([40]) 玉帝掌三期, 南北東西興正道; Ngọc Đế nắm Tam Kỳ, Nam Bắc Đông Tây hưng chánh đạo. / 高臺歸萬法, 釋儒耶老統真傳; Cao Đài gom muôn pháp, Phật, Nho, Chúa, Lão thống chơn truyền. Ngọc Đế 玉帝 (the Jade Emperor): Ngọc Hoàng 玉皇. Gia: Gia Tô 耶稣 (Jesus); Giê-su; Gia Tô Giáo 耶穌 (religion of Jesus).

Huệ Khải chú thích Lê Anh Minh hiệu đính