Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2022

TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG (12-8-1970)

HÃY CỐ GẮNG XÂY DỰNG THÁNH ĐƯỜNG NỘI TÂM

Thánh đường Quảng Tín

ngày 11-7 Canh Tuất (Thứ Tư 12-8-1970)

BẠCH PHỤNG ĐỒNG TỬ

Tệ Đệ mừng đạo trưởng Bảo Pháp Chơn Quân,([1]) mừng chư chức sắc Lưỡng Đài và toàn thể bổn đạo. Tệ Đệ kính gởi lời mừng đạo trưởng Phối Sư Chủ Trưởng ([2]) và gởi lời thăm hiền hữu Thanh Long.([3]) Tệ Đệ hân hạnh được báo đàn, được hội ngộ cùng chư huynh tỷ trong dịp lễ khánh thành thánh đường Quảng Tín này.([4]) Tệ Đệ ước mong sao ngày gần đây quê hương sớm thanh bình, cơ đạo ngày một phát triển để cho kẻ sắc giới,([5]) người không giới ([6]) có dịp gặp gỡ nhau nữa.

Vắn tắt ít lời. Vậy xin nghiêm đàn tiếp Trần Tổng Lý ([7]) giáng lâm. Xin mời hiền tỷ Bạch Tuyết được phép an dưỡng tinh thần trong khi lộ trình còn mệt nhọc. Trần Tổng Lý sẽ ban ân điển cho đồng tử xuất khẩu.([8]) Tệ Đệ chào chung. Xin kiếu. Thăng.

TIẾP ĐIỂN

[Đồng tử xuất khẩu]([9])

THI

Một dải non sông, một mảnh tình

Quay về tâm sự dưới cơ linh

Tam Kỳ sứ mạng ai đâu tá ([10])

Đem đạo vào đời cứu chúng sinh?

TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG ([11])

Bản Thánh chào chư đại diện các Hội Thánh, cơ quan đạo. Mừng đạo trưởng Bảo Pháp Chơn Quân, chư chức sắc Lưỡng Đài, toàn thể bổn đạo nam nữ. Xin mời tất cả đồng an tọa.

Bản Thánh đến trần gian giờ này với một niềm hân hoan phấn khởi, mừng ngày khánh thành thánh đường tại Quảng Tín này ngày sum họp các Hội Thánh toàn đạo Nam Trung biểu dương tinh thần đồng nhứt,([12]) thân ái trong gia đình Đại Đạo. Đó chính là ưu điểm đáng nêu cao. Bởi chính tinh thần đồng nhứt, hy sinh ấy mà bổn đạo nơi này mới xây cất nổi ngôi thánh đường uy nghi trang trọng này, và cũng chỉ có tinh thần đồng nhứt ấy giữa các chi phái mới mong làm tròn sứ mạng trọng đại đem đạo vào đời, phục hưng ([13]) tinh thần đạo đức cố hữu,([14]) hòng ([15]) hoán cải ([16]) nhơn tâm, cải tạo xã hội, cứu vãn đất nước thoát cảnh điêu linh tan tác, xây dựng lại nếp sống thanh bình, đạo lý cho con người.

Nhơn đây, Bản Thánh thấy cần nhắc lại cho chư hiền: Người hướng đạo ([17]) phải ý thức sứ mạng của mình; phải ưu tư trách nhiệm hướng đạo, lãnh đạo quần sinh; phải tiên kiến, tiên liệu ([18]) mọi lẽ tồn vong, suy thịnh; phải biết nhận xét tổng quát, nhìn về mọi vấn đề xa xăm ([19]) mới mong đưa cơ đạo đạt đến kết quả, thành tựu.

Điều cấp thiết ([20]) ngày nay, ở đây nói riêng Hội Thánh Truyền Giáo nhưng chung cho Đại Đạo, là làm sao tập trung mọi khả năng, tâm lực vào việc đào luyện người chức sắc Thiên ân tạm đủ khả năng chấp hành ([21]) đạo pháp trong hiện tại. Một mặt đặt kế hoạch đoản kỳ, trường kỳ;([22]) mở tu viện, tuyển chọn tu sinh, tu sĩ, đào luyện thành các giáo sĩ để truyền đạo, hành đạo tương lai. Một mặt bất phân chi phái; cùng nỗ lực xây dựng, phát huy giáo lý, làm sáng tỏ chủ thuyết dung hòa tổng hợp trên tinh thần Tam Giáo quy nguyên, vạn giáo nhứt lý của Đại Đạo; cùng nỗ lực kiến tạo([23]) các cơ sở Hội Thánh tạm đầy đủ để có nơi thực hiện các điểm nói trên. Xây dựng cơ cấu đầu não kiện toàn ([24]) là giúp cho quyền lãnh đạo Hội Thánh thêm uy nghi và nhất trí. Đó mới chính là điểm cần yếu.

Ngoài ra, việc khuếch trương lớn mạnh ở địa phương cũng rất hữu ích, nhưng trước hoàn cảnh cơ đạo hiện thời, chỉ còn là một thứ yếu mà thôi. Dầu vậy, nơi Quảng Tín này cũng như những nơi khác, trong một tình thế đặc biệt, bổn đạo vùng này phải chịu bao cơ cực trong hoàn cảnh di cư tỵ nạn, bởi thiên tai chiến họa dồn dập đưa đến, nhưng vẫn một lòng hy sinh cao độ, góp sức góp công xây dựng nên ngôi thánh đường quy mô này. Với tinh thần tự cường bất tức,([25]) con người đạo đã vượt qua mọi nghịch cảnh. Tinh thần ấy đáng khích lệ và đáng ngợi khen.

Bản Thánh đến để chấp nhận cho tinh thần ấy, ghi công chung cho Giáo Sư Thái Phẩm Thanh,([26]) chư chức sắc Lưỡng Đài, chư chức việc và toàn thể bổn đạo nam nữ. Ghi công chung mới là phần thưởng cao đẹp nhứt, nói lên công đức hy sinh cho lý tưởng, cho Giáo Hội, chớ không riêng cho cá nhân.

Giờ đây, thánh đường ngoại giới ([27]) đã an bài, toàn đạo hãy quay về xây dựng thánh đường nội tâm,([28]) bởi nơi ấy Thầy hằng ngự và bốn phương dễ dàng chung về. Hãy cố gắng xây dựng thánh đường nội tâm ([29]) được chắc chắn, thêm uy nghi, xán lạn. Thánh đường nội tâm mới là nhà chung chi phái, là kỳ đài cờ đạo trương cao vậy.

THI

Liệu sao cho đáng bậc tu hành

Đại Đạo Tam Kỳ được sáng danh

Diệu pháp ([30]) xóa tan lòng uất hận

Huyền cơ ([31]) dập tắt lửa hờn ganh

Trời Nam vận chuyển gầy Nam địa

Đất Việt mưu toan mở Việt thành

Đem lại nhơn gian đời thánh đức

Trung hưng sứ mạng khúc ca thanh.([32])

BÀI

1. Thanh phong minh nguyệt hữu tình ([33])

Không gian mờ ảo bóng hình Khuôn Thiêng ([34])

Tay Tạo Hóa diệu huyền sắp đặt

Cõi dinh hoàn ([35]) không sắc tương quan ([36])

Đêm thu gác áng mây vàng ([37])

Trần trung ([38]) nhẹ gót cơ loan ([39]) bút đề.([40])

2. Nhân thế hỡi! Đâu về nhân bản? ([41])

Sứ mạng ơi! Sao đáng sứ đồ? ([42])

San hà vạn sắc điểm tô

Trung Châu ([43]) một cõi diễn phô ([44]) Đạo Trời.

3. Mấy mươi năm gặp thời tao loạn ([45])

Biết bao điều quốc nạn, thiên tai

Cơ đồ ([46]) một gánh trở day

Một dòng Bến Hải chia hai nẻo đường.([47])

4. Cuộc thử thách dặm trường thiên lý ([48])

Cờ xứng tay chiếu bí song xa

Thử xem kỳ thủ ([49]) đâu là

Tay nào tạo thế nhân hòa ngày nay.

5. Kìa Trường Sơn dặm dài hùng vĩ

Nọ Ngũ Hành ([50]) tú khí ([51]) uy nghi

Ngày nào ngũ phụng tề phi ([52])

Bây chừ ([53]) mấy bực vinh quy ([54]) giúp đời?

6. Thế đã loạn, tùy thời xử thế

Đạo phục hưng, quốc thể trung hưng ([55])

Phục hưng đạo lý tinh thần

Mở cơ tận độ muôn dân hưởng nhờ.

7. Hỡi sứ mệnh! Còn chờ chi đó?

Này anh em, chớ có lãng quên!

Thế gian ước vọng hòa bình

Hòa bình cũng chỉ do mình mà thôi.

8. Tâm đã động, tình đời phải động

Tâm tỉnh rồi tình trống không không

Không chấp ngã, không dị đồng

Bắc nam hiệp mặt,([56]) tây đông chung đường.

9. Hãy tự lực, tự cường, tự tín

Có tu tề, quốc chính mới yên ([57])

Bên trong nội giới chưa tuyền ([58])

Hòa bình là thế ([59]) láng giềng mang cho.

10. Đại Đạo tạo con đò cứu khổ

Hướng đạo cần tự độ, độ tha

Năm chi bảy phái hiệp hòa

Trương cờ Đại Đạo xây tòa vạn linh.

Sau đây, Bản Thánh khuyên chư chức sắc, bổn đạo sở tại Quảng Tín nên lưu ý nguyên do phát khởi tâm đạo thành lập nên ngôi thánh đường nguy nga đồ sộ này. Văn hóa, phước thiện có phát triển được thì tỉnh đạo ([60]) mới vững vàng phát huy giáo lý của Đại Đạo. Mọi việc nên do chấp hành quyền pháp của Hội Thánh mà lãnh đạo.

Trần Quý Cao và Nguyễn Công Châu là hai vị đã tử vì đạo. Công quả của hai vị đã được Bản Thánh ghi nhận và ban ân trong kỳ lễ kỷ niệm các Thánh Tử Đạo. Vậy Bản Thánh khuyên gia đình nên vui nên mừng, chẳng nên buồn.

Bản Thánh ban ơn lành chung tất cả. Xin giã từ. Thăng.



([1]) Bảo Pháp Chơn Quân: Là tiền bối Tạ Đăng Khoa (1904-1973), thánh danh Huỳnh Chơn, thọ Thiên phong phẩm vị Bảo Pháp Chơn Quân, lãnh đạo bộ phận Hiệp Thiên Đài của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (quận Nhứt, Sài Gòn).

([2]) Phối Sư Chủ Trưởng: Là tiền bối Trần Văn Quế (1902-1980), thánh danh Huệ Lương, thọ Thiên phong phẩm vị Phối Sư, Chủ Trưởng Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, cũng là Vĩnh Tịnh Sư của Minh Lý Thánh Hội (Sài Gòn), và là Tổng Lý Minh Đạo đầu tiên của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, đắc quả Quảng Đức Chơn Tiên.

([3]) Thanh Long: Thánh danh của tiền bối Lương Vĩnh Thuật, cũng là Lương Tam Sách, tên thật là Lương Hữu Thành (1918-1982), phẩm vị Bảo Pháp Chơn Quân. Ban sơ tiền bối là đồng tử Thanh Long, cùng với ba vị đồng tử Xích Lân (Trần Công Sĩ, 1921-?), Kim Qui (Lê Văn Qui, 1917-1935), và Bạch Phụng (Lê Văn Phụng, 1915-1935) cùng thọ Thiên phong chung thánh hiệu Tứ Linh Đồng Tử 四靈童子 để rồi từ thánh tịnh Đại Thanh (quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định) trở về quê nhà (làng Bất Nhị, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) bắt đầu sứ vụ khai đạo Cao Đài tại Trung Kỳ (1934).

([4]) Quảng Tín: Ngày 31-7-1962, sắc lệnh 162-NV của Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa chia tỉnh Quảng Nam thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín, lấy sông Rù Rì làm ranh giới hai tỉnh. Năm 1976, tỉnh được hợp nhất với Quảng Nam và Đà Nẵng để thành tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Ngày 06-11-1996, chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng để tái lập tỉnh Quảng Nam và lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương (Hà Nội). Từ 1976 trở đi tên thánh đường đúc ở mặt tiền vẫn là Quảng Tín; khi trùng tu vào cuối tháng 11-2020 mới sửa là thánh đường Quảng Nam.

([5]) kẻ sắc giới (corporeal beings): Kẻ hữu hình, người phàm.

([6]) người không giới (incorporeal beings): Người cõi vô hình, các Đấng thiêng liêng (deities, divinities).

([7]) Trần Tổng Lý: 陳總理: Đức Trần Hưng Đạo là Tổng Lý Vô Vi của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. (Tổng Lý dịch ra tiếng Anh là General Manager. Chức Thủ Tướng 首相 [Prime Minister] còn dịch ra tiếng Hoa là Tổng Lý.)

([8]) Thánh giáo này do bộ phận Hiệp Thiên Đài của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý thông công vào giờ Tý. Đồng tử phò loan xuất khẩu là cô Hoàng Mai (sinh năm 1954). Cô là ái nữ tiền bối Lê Ngọc Trang (1918-1986), thánh danh Bạch Tuyết, đắc quả Quán Pháp Chơn Tiên. Như vậy, cô là cháu ngoại tiền khai Lê Văn Lịch (1890-1947), tức là Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, và là cháu cố ngài Lê Văn Tiểng (1843-1913), tức là Thái Lão Sư Lê Đạo Long, khai sáng chi Minh Đường ở làng Long An (quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn, nay là tỉnh Long An), đắc quả Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn.

([9]) Đồng tử thủ cơ (cầm cơ) viết chữ trên mặt bàn (writing medium), thì cần một độc giả (dictating person) nhìn vào chữ, xướng lên rõ tiếng cho điển ký chép lại. Nếu là đồng tử xuất khẩu (speaking medium), chính miệng đồng tử phát ra tiếng nói trong lúc ngọn cơ viết chữ trên mặt bàn, thì không cần độc giả. Một ban điển ký (jotting team) chép lại những lời đồng tử xuất khẩu, hoặc độc giả xướng lên.

([10]) Câu này ý nói: Ai là người sứ mạng Kỳ Ba nhỉ? : Từ đặt cuối câu hỏi, cũng như: hả, hở, hử, nhỉ? Td: Người xưa cảnh cũ nào đâu ? (Bà Huyện Thanh Quan: Cảnh cũ còn đây mà người xưa đâu nhỉ?)

([11]) Ngài có thế danh Trần Quốc Tuấn (1228?-1300), là con trai An Sinh Vương Trần Liễu, cháu nội Trần Thừa (vua Trần Thái Tông), tức là bác Trần Khâm (vua Trần Nhân Tông). Năm 1289, vua Trần Nhân Tông phong tước cho ngài là Hưng Đạo Đại Vương. Khi ghép với họ Trần, ngài là Trần Hưng Đạo Đại Vương, gọi tắt là Trần Hưng Đạo.

([12]) đồng nhứt 同一 (unanimous): Đồng thuận nhứt trí 同順一致, hoàn toàn đồng ý với nhau.

([13]) phục hưng 復興 (restoring sth): Trung hưng 中興; làm cho hưng thịnh lại sau một thời kỳ suy yếu.

([14]) cố hữu 故有 (available): Vốn có từ trước, sẵn có.

([15]) hòng (expecting to do sth): Mong mỏi làm được việc gì. Thơ cổ: Cái vòng danh lợi cong cong / Kẻ hòng ra khỏi, người mong chui vào.

([16]) hoán cải 換改 (reforming sth): Thay đổi từ xấu thành tốt.

([17]) người hướng đạo (hướng đạo giả 向導者: spiritual leader; those who lead their coreligionists): Người dẫn dắt đạo hữu.

([18]) tiên kiến 先見 (having the foresight; seeing what will or might happen in the future): Thấy trước những gì có thể xảy ra. – tiên liệu 先料 (anticipating sth): Đoán trước, toan tính trước, dự liệu 預料, dự đoán 預斷.

([19]) nhìn về mọi vấn đề xa xăm: Có tầm nhìn xa, nhìn trước; có viễn kiến 遠見 (having foresight).

([20]) cấp thiết 急切 (urgent): Cấp bách 急迫, khẩn cấp 緊急, gấp rút.

([21]) chấp hành 執行 (executing sth, carrying out sth, implementing sth): Thi hành, thực thi.

([22]) kế hoạch đoản kỳ (đoản kỳ kế hoạch 短期計畫: short-term plan): Kế hoạch ngắn hạn, thường là một năm hay ít hơn. – kế hoạch trung kỳ (trung kỳ kế hoạch 中期計畫: medium-term plan): Kế hoạch trung hạn, thường là ba năm. – kế hoạch trường kỳ (trường kỳ kế hoạch 長期計畫: long-term plan): Kế hoạch dài hạn, thường là năm năm.

([23]) kiến tạo 建造 (constructing sth): Xây dựng.

([24]) kiện toàn 健全 (perfect): Hoàn hảo.

([25]) tự cường bất tức 自強不息 (constantly striving to become stronger; unremittedly striving to improve oneself): Không ngừng làm cho mình mạnh mẽ hơn; không ngừng cố gắng làm cho bản thân tốt đẹp hơn. Đại Tượng Truyện quẻ Kiền có câu: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức. 天行健, 君子以自強不息. (Trời vận hành mạnh mẽ, quân tử nhân đó mà tự mình cố gắng mạnh mẽ không ngừng. – The movement of Heaven is full of power; thus, the superior man unceasingly makes himself stronger.)

([26]) Giáo Sư Thái Phẩm Thanh: Thế danh Mai Diệu (1910-1991), người thôn Đồng Tác, xã Bình Nam, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

([27]) thánh đường ngoại giới 外界聖堂 (external holy hall): Thánh đường hữu hình (visible holy hall), cất bằng vật liệu thế gian.

([28]) thánh đường nội tâm (tâm nội thánh đường 心内聖堂: internal holy hall): Thánh đường vô hình (invisible holy hall), không cất bằng vật liệu thế gian. Tâm hồn con người thánh thiện, đạo đức tròn đầy là thánh đường nội tâm; trong đó có Cao Đài nội tại, Thượng Đế nội tại. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô (3:16), Thánh Phao-lô cũng nói về thánh đường nội tâm khi viết: Anh em há chẳng biết rằng chính anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Linh Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (Don’t you know that you yourselves are God’s temple and that God’s Spirit dwells in your midst?)

([29]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([30]) diệu pháp 妙法 (marvellous dharma): Đạo pháp mầu nhiệm.

([31]) huyền cơ 玄乩 (mysterious means of evocation; fig., Caodai teaching bestowed by means of evocation): Cơ bút huyền diệu; ám chỉ thánh giáo Cao Đài ban truyền qua cơ bút.

([32]) khúc ca thanh (âu ca 謳歌: song to praise a peaceful society): Khúc ca bày tỏ lòng vui mừng vì đời thanh bình.

([33]) thanh phong minh nguyệt hữu tình 清風明月有情 (a lovely scenery with cool breeze and bright moon): Cảnh đáng yêu với gió mát, trăng trong tỏ sáng.

([34]) Khuôn Thiêng (sacred potter's wheel; fig., the Creator): Cái khuôn linh thiêng, ám chỉ Trời, Đức Thượng Đế (Tạo Hóa 造化: the Creator), do đó viết hoa. Khuôn (quân ) là cái bàn xoay của thợ nặn đồ gốm (potter’s wheel). Đại Quân 大鈞, Hồng Quân 洪鈞 (khuôn lớn) cũng đồng nghĩa Khuôn Thiêng; ý nói Trời tạo nên muôn vật cũng giống như thợ gốm dùng cái bàn xoay để nắn ra đủ thứ đồ dùng. Truyện Kiều có câu: Khuôn Thiêng dù phụ tấc thành / Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.

([35]) dinh hoàn, doanh hoàn 瀛寰 (the world, the globe, the earth): Thế gian, địa cầu.

([36]) không sắc tương quan (There are mutual relations between the invisible and visible worlds): Cõi thiêng liêng siêu hình (không giới 空界) và cõi thế gian hữu hình (sắc giới 色界) có quan hệ lẫn nhau (tương quan 相關).

([37]) mây vàng (kim vân 金雲: golden cloud; fig., precious cloud): vầng mây quý để đỡ chân Tiên Thánh đi lại; nên văn học nói Tiên Thánh vân du 雲遊 (riding a cloud). – gác áng mây vàng: Dừng đám mây vàng, ngừng bước vân du (để giáng đàn dạy đạo).

([38]) trần trung 塵中 (in the world): Giữa cõi trần, trong trần thế.

([39]) cơ loan: Ngọn cơ. Cần ngọn cơ có khi chạm hình đầu chim loan . Do đó cầu cơ (phù kê 扶乩) cũng gọi là phò loan. Chim loan là chim mái, tương tự như chim hoàng (: female phoenix) trong thần thoại. Văn học nói loan phượng là ám chỉ vợ chồng, vì phượng hay phụng là chim trống (male phoenix).

([40]) bút (writing sth): Dùng như động từ, bút là viết chữ, đồng nghĩa với đề .

([41]) Đâu về nhân bản?: Về đâu nhân bản? Đảo ngữ thành đâu về cho vần với chữ đề cuối câu thơ trên. Câu này gợi nhớ thánh thi Đức Phan Thanh Giản (Trúc Lâm Thiền Điện, Vĩnh Long, Chủ Nhật 02-5-1971): Đi về đâu? Việt Nam ơi! / Về nơi nhân bản của Trời trước kia. – nhân bản 人本: Gốc con người. Thuật ngữ nhân bản trong Cao Đài bao hàm nhiều nghĩa thâm sâu; chữ humanism không diễn tả được trọn. Chẳng hạn, con người (tiểu linh quang) vốn sinh xuất từ Thượng Đế (Đại Linh Quang), vậy gốc của con người là Trời. Trời (Thượng Đế hữu ngã: personal God) cũng là Đạo (Thượng Đế vô ngã: impersonal God); vậy gốc con người là Đạo. Đời sống nhân bản (humanistic life) là đời sống hợp lẽ Trời, vừa lo phụng sự thế gian vừa lo xây dựng con đường trở về gốc cội của mình (phản bổn huờn nguyên 本還源: returning to one’s origin), tức là trở về với Đạo, với Trời.

([42]) sứ mạng 使命 (missioner): Người nhận sứ mạng, người được Thượng Đế sai đi truyền đạo. – sứ đồ 使徒 (apostle): Cũng như tông đồ 宗徒, người học trò được Thượng Đế (Thầy) sai đi truyền đạo. Thời Nhị Kỳ Phổ Độ, Chúa Giê-su chọn mười hai tông đồ, gọi là thập nhị sứ đồ 十二使徒.

([43]) Trung Châu 中洲, 中州 (Central Vietnam): Cũng gọi là Trung Kỳ 中圻 (thời Minh Mạng, 1834), Trung Bộ 中部 (từ tháng 5-1945), Trung Việt 中越 (thời Bảo Đại, 1949), Trung Phần 中分 (thời Ngô Đình Diệm, 1955), thường gọi là miền Trung.

([44]) diễn phô (phô diễn, phu diễn 敷衍: expounding sth): Trình bày cặn kẽ cho mọi người hiểu rõ.

([45]) tao loạn 騷亂 (war, disturbance): Loạn lạc, giặc giã nhiễu nhương.

([46]) cơ đồ 基圖 (kingdom, country): Cũng như hoàng đồ 皇圖, ám chỉ vương triều, đất nước.

([47])Một dòng Bến Hải chia hai nẻo đường: Hiệp định đình chiến ký tại thành phố Geneva (Thụy Sĩ) ngày 20-7-1954 lấy sông Bến Hải làm phân giới chia đôi nước Việt: phía bắc là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; phía nam là Việt Nam Cộng Hòa. Dài khoảng 100km, bắt nguồn từ núi Động Chân thuộc dãy Trường Sơn, sông Bến Hải chảy từ tây sang đông dọc theo vĩ tuyến 17 rồi đổ ra biển ở Cửa Tùng. Sông là ranh giới thiên nhiên giữa hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh (tỉnh Quảng Trị).

([48]) Có câu trường đồ tri mã lực 長途知馬力 (Long distance tests the strength of a horse: Đường dài mới biết sức ngựa). Cuộc thử thách dặm trường thiên lý là để biết ai thực sự là trang hướng đạo, bậc sứ đồ gánh vác nổi sứ mạng trung hưng ở Trung Kỳ.

([49]) Chỗ này Đức Trần Tổng Lý chơi chữ. Câu trên nói: Cờ xứng tay chiếu bí song xa; nên ngỡ đâu kỳ thủ nghĩa là người đánh cờ (棋手: chess player). Nhưng câu dưới nói: Tay nào tạo thế nhân hòa ngày nay; nên kỳ thủ lại có nghĩa là người có tài đặc biệt (奇手: person of extraordinary talent), đồng nghĩa kỳ nhân 奇人.

([50]) Ngũ Hành: Ngũ Hành Sơn 五行山 (núi Non Nước) là tên gọi quần thể những ngọn núi đá vôi nhô lên trên một bãi cát ven biển, chiếm diện tích khoảng hai cây số vuông, gồm: Kim Sơn, Mộc Sơn, Thủy Sơn (lớn, cao và đẹp nhất), Hỏa Sơn (gồm hai ngọn là Dương Hỏa Sơn và Âm Hỏa Sơn) và Thổ Sơn. Quần thể này cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng tám cây số về hướng đông nam, ngay trên tuyến đường Đà Nẵng – Hội An; nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

([51]) tú khí 秀氣: Khí tốt lành.

([52])ngũ phụng tề phi 五鳳齊飛 (the five phoenixes flying together): Năm con chim phụng cùng bay. Phụng (phượng) là chim trống; hoàng là chim mái. Ngũ phụng tề phi là thành ngữ gọi chung năm Nho sinh tỉnh Quảng Nam cùng đỗ đại khoa năm 1898. Gồm có: 1/ Phạm Liệu (1873-1937), người làng Trừng Giang, tổng Đa Hòa Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn). 2/ Phan Quang (1873-1939), người làng Phước Sơn Thượng, tổng Xuân Phú Trung, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình (nay là xã Quế Châu, huyện Quế Sơn). 3/ Phạm Tuấn (1852-1917), người làng Xuân Đài, tổng Phú Khương Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay là xã Điện Quang, huyện Điện Bàn). 4/ Ngô Chuân (1873-1899), người làng Mông Lãnh, tổng Phú Xuân, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình. 5/ Dương Hiển Tiến (1866-1907), người làng Cẩm Lậu, tổng Thanh Quýt, huyện Diên Phước, phủ Ðiện Bàn (nay là xã Điện Phong, huyện Điện Bàn).

([53]) bây chừ (hiện tại 現在: now, at present): Bây giờ.

([54]) vinh quy 榮歸 (returning home with honour): Có từ đời Lê Thánh Tông. Năm 1481 vua đặt ra lệ xướng danh và vinh quy cho các cử nhân tân khoa. Tân khoa nhận áo, mũ, và giày của vua ban; tên được nêu ở bảng gỗ chạm hình hổ (bảng hổ đề danh). Sau đó họ lần lượt lạy tạ ơn vua cùng các quan hàng tỉnh và quan trường. Khi tân khoa trở về quê quán; dân ở phủ, huyện, tổng, xã phải tổ chức đón rước, gọi là lễ vinh quy bái tổ 榮歸拜祖 (returning home with honour to pay respect to one’s ancestors).

Ngày nào ngũ phụng tề phi / Bây chừ mấy bực vinh quy giúp đời? Đất Quảng Nam ngày xưa có các Nho sinh đỗ đạt, đem tài ra giúp đời; ngày nay có được bao nhiêu người làm như thế?

([55]) quốc thể 國體 (national prestige): Danh dự, thể diện của quốc gia. – phục hưng 復興, trung hưng 中興: (restoring sth after its decline): Hồi phục lại sau thời kỳ suy yếu.

([56]) hiệp mặt (seeing each other; fig., no longer attacking each other): Nhìn nhau, không còn chống cự, đối địch nhau.

([57]) tu tề: Tu thân 修身tề gia 齊家.quốc chính, quốc chánh 國政 (national politic affairs): Việc chính trị của quốc gia.

([58]) chưa tuyền (not yet perfect): Chưa toàn vẹn.

([59]) thế (situation; conditions): Tình thế, hoàn cảnh; điều kiện.

([60]) Cho tới năm 1975, Quảng Tín là một tỉnh đạo của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. (Sau năm 1975, tỉnh Quảng Tín sáp nhập với tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng để lập thành tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, với Đà Nẵng là tỉnh lỵ. Năm 1997, tách tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chánh độc lập là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Danh hiệu thánh đường Quảng Tín trở thành thánh dường Quảng Nam.)

 

HUỆ KHẢI chú thích LÊ ANH MINH hiệu đính