Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

NỘI DUNG Tìm hiểu TTTH Kỷ Hợi (1959)

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo
Tìm hiểu
THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG
năm Kỷ Hợi (1959)
Chú thích: HUỆ KHẢIHiệu đính: LÊ ANH MINH
Giới thiệu: Giáo Sư THƯỢNG VĂN THANH
Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế (Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài)
In lần thứ nhất
Nhà xuất bản HỒNG ĐỨCHà Nội 2020

NỘI DUNG
LỜI GIỚI THIỆU. Giáo Sư Thượng Văn Thanh
THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG - NĂM KỶ HỢI (1959)
1. XUÂN HUYỀN CƠ THÁNH ĐỨC. Tiếp Văn Pháp Quân, Quan Thánh Đế Quân, Quan Âm Bồ Tát, Thái Bạch Kim Tinh
2. NAY LÀ LÚC CẦN ĐÒI HỎI MỘT TÂM TRƯỜNG BỒ TÁT. Lý Giáo Tông
3. CỐ GẮNG LẤY LÒNG MÌNH MÀ ĐƯƠNG VI SỨ MẠNG. Đông Phương Lão Tổ, Ngọc Hoàng Thượng Đế
4. PHẢI LÀM SAO XỨNG ĐÁNG MỘT NGƯỜI CHỊU MẠNG TRỜI. Thái Bạch Kim Tinh
5. XUÂN THÁNH ĐỨC NGẬP ĐẦY NHỰA SỐNG. Trường Canh Tiên Trưởng
6. CON ĐƯỜNG SỨ MẠNG TRONG BUỔI TAM KỲ ĐẠI XÁ CỦA ĐỨC CHÍ TÔN. Đông Phương Lão Tổ
7. TẤM BẢN ĐỒ ĐỂ HOÀN THÀNH SỨ MẠNG. Đông Phương Lão Tổ
8. CHỈ CÓ PHƯƠNG TU GIẢI THOÁT LÀ CON ĐƯỜNG BẤT DIỆT. Phục Ma Đại Đế
9. PHẤN CHÍ KHỞI TÂM ĐỂ KHỎI BÁN ĐỒ NHI PHẾ. Bảo Thọ Thánh Nương
10. CHỈ CÓ LỄ XUẤT GIA LÀ HƠN CẢ. Vô Cực Từ Tôn
11. THÀNH LẬP TU XÁ CHO NỮ ĐOÀN GIẢI THOÁT. Lý Thái Bạch
12. NỮ ĐỒ NHÀ TU LẬP HẠNH. Ngô Cao Tiên
13. BỐN ĐIỀU TÂM NIỆM CỦA NỮ ĐỒ. Ngô Cao Tiên
14. NÊN CỞI MỞ LO TU HÀNH. Ngô Cao Tiên
15. HỄ TU PHẢI NGHĨ THÂN NÀY BỎ ĐI. Bảo Thọ Thánh Nương, Ngô Tôn Sư
16. THẦY PHẾ NGỌC KINH QUYẾT ĐẾN TRẦN GIAN ĐỘ TẬN CÁC CON. Lý Bạch Đại Tiên, Ngọc Hoàng Thượng Đế
PHỤ ĐÍNH: Giải nghĩa bài thơ xưng danh
17. LẬP LẠI PHÁP LUẬT NỐI LẠI THÔNG CÔNG. Ngô Đại Tiên
18. THÁNH THI TẶNG GIÁO SINH. Nguyễn Chơn Khai
19. THẦY ĐÃ ĐẾN ĐÂY THÌ SỨ MẠNG VỀ ĐÂY. Võ Kính Mẫn, Lý Thái Bạch
PHỤ ĐÍNH: Giải nghĩa bài thơ xưng danh
20. XÂY DỰNG ĐẠI ĐỒNG XÃ. Hưng Đạo Tổng Lý
PHỤ BẢN:
Thánh thất Trung Nguyên (ảnh tài liệu, 2011)
Nhà tu Phước Huệ Đàn (ảnh: Trần Thanh Tạo, 2018)



LỜI GIỚI THIỆU

LỜI GIỚI THIỆU
Đối với Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thánh giáo rất quan trọng. Ơn Trên dùng thánh giáo để khai Đạo. Các Thiên ân hướng đạo dùng thánh giáo để truyền giảng. Và nhân sinh đồ chúng nhờ thánh giáo để tu học, sống đạo.
Vốn có những khác nhau về nhiều mặt nên người đạo đến với thánh giáo cũng bằng nhiều cách không giống nhau. Có người chỉ rung đùi ngâm nga. Có người cặm cụi chép tay. Có người đem thánh giáo, thánh thi chuyển thành nhạc đạo...
Rất phổ biến là đa số người đạo đã chiêm nghiệm và sống với thánh giáo. Chẳng hạn, người làm đạo khi bị chê bai, trách móc thì nghĩ một cách tổng quát đến hai câu thánh thi của Đức Bạch Phụng Đồng Tử:
Lấm đầu bao quản thân lươn
Gìn lòng thanh bạch noi gương thánh hiền.([1])
Và có vẻ sâu hơn thì vận dụng hai câu thánh thi của Đức Quảng Đức Chơn Tiên:
Cao Đài là cái đài cao
Vượt lên tất cả đón rào ngăn che.([2])
Như vậy, thánh giáo là thức ăn tinh thần thông dụng cho người đạo. Đối với tín hữu Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thì nguồn cung cấp thức ăn tinh thần quý báu đó chính là bộ Thánh Truyền Trung Hưng, bao gồm những thánh giáo được các Đấng thiêng liêng giáng tại nhiều thánh sở để dạy về cơ đạo miền Trung kể từ khi Đạo Thầy truyền về đây năm Giáp Tuất (1934) cho đến cuối thế kỷ trước. Với thời gian dài hơn sáu mươi năm như vậy, bộ Thánh Truyền Trung Hưng in gần đây đã kết tập được ba trăm ba mươi mốt bài (nhưng ắt vẫn còn thiếu một số thánh giáo).
Hấp thụ chất dinh dưỡng trong thức ăn tinh thần nói trên (tức Thánh Truyền Trung Hưng) thường có những cái khó. Tại sao khó và khó như thế nào? Điều đó tùy thuộc vào yêu cầu sử dụng và căn trí mỗi người.
Một trong những cái khó ấy là ngữ nghĩa; vì vậy, đạo huynh Huệ Khải đã phát tâm giúp giảm bớt cái khó này cho bổn đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài với loạt sách Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng. Điều này cũng tự nhiên và dễ hiểu vì bấy lâu nay đạo huynh Huệ Khải vốn rất gần gũi với bổn đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Quyển Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng Năm Kỷ Hợi (1959) chúng ta đang có là tập đầu tiên trong loạt sách ấy, gồm hai mươi bài thánh giáo.
Ngoài phần giải nghĩa các từ khó, từ Việt cổ, thuật ngữ tôn giáo, thành ngữ và điển tích, v.v… sách còn có thêm phần chữ Nho và tiếng Anh nên rất cần cho cả thế hệ lớn tuổi và thế hệ trẻ ngày nay. Những bài thánh giáo tiếp nhận qua trung gian đồng tử, truyền qua độc giả đến điển ký, rồi những người sao chép về sau, thường khó tránh các lỗi về chính tả, ngắt câu, viết hoa... Quan tâm hạn chế các lỗi này, giúp cho người đọc và góp sức với đồng đạo có nhu cầu vận dụng thánh giáo để viết bài, nói chuyện… là thiện ý của soạn giả.
Loạt sách tìm hiểu này nếu tiếp tục thực hiện cho đầy đủ từ bài thánh giáo đầu đến bài cuối (ngoài năm Kỷ Hợi 1959) sẽ là một công trình phụ trợ rất quý cho người mộ đạo hiếu học ham tu và nói riêng cho giới Phổ Tế.
Đạo huynh Huệ Khải qua các sách đã xuất bản cũng như nhiều bài viết trên các tạp chí, trong đạo và ngoài đời, thể hiện tác phong một người cầm bút có trách nhiệm đối với nhà Đạo và người đọc. Ưu điểm đáng quý ấy cùng với lòng nhiệt thành công quả và nỗi âu lo phụng đạo nơi đạo huynh Huệ Khải khiến tôi hoan hỷ giới thiệu Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng với quý huynh tỷ đồng đạo.
Ước mong việc làm này của đạo huynh Huệ Khải cùng với bao nhiêu hình thức công quả đa dạng được tiếp nối qua các thế hệ trước sau đều cùng chung sức tài bồi cho nhà Đạo được xương minh, xán lạn.
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài
Ngày 15 tháng Giêng Canh Tý
Thứ Bảy 08-02-2020
Giáo Sư THƯỢNG VĂN THANH
Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế


([1]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Mậu Dần (Thứ Tư 10-8-1938).
([2]) Tam Tông Miếu, 07-6 Tân Dậu (Thứ Tư, 08-7-1981).

KÝ HIỆU & VIẾT TẮT

KÝ HIỆU & VIẾT TẮT
/
thay thế cho chỗ phải xuống hàng
(. . .)
lược bớt chữ trong thánh giáo
[ . . . ]
chữ trong dấu [. . .] là do chúng tôi thêm vào
(?)
chưa chắc chắn, tồn nghi một giải thích
[cổ]
tiếng Việt cổ
fig.
figurative meaning
i.e.
id est, that is
sb
somebody
sth
something
Td
thí dụ

1. XUÂN HUYỀN CƠ

1. XUÂN HUYỀN CƠ THÁNH ĐỨC
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
ngày 03-01 Kỷ Hợi (Thứ Ba 10-02-1959)
THI
TIẾP ân thánh đức dựng Trung Hưng
VĂN sĩ toàn tu đợi đón mừng
PHÁP đạo khuyên ai bền chí gắng
QUÂN tâm ([1]) hiệp lực gội hồng ân.([2])
Bản Quân ([3]) chào chư Thiên ân. Chào chư chức sắc, chức việc và toàn đạo nam nữ.
Đại tịnh nghiêm đàn đón mừng Tam Trấn.([4])
Giờ nầy Bản Quân đến báo tin và chỉnh đốn đàn tiền để được tiếp kỳ giáo pháp.([5])
Năm nay, theo lệnh Tam Giáo Tòa ban hành luật pháp, xây dựng đạo quyền, chư Thiên ân và toàn đạo cố gắng tiến lên để đón hồng ân tam hội Long Hoa khai thế đạo. Chư chức sắc Hiệp Thiên Đài và Minh Tra ([6]) phải dọn mình ([7]) chờ lệnh để lãnh sứ mạng ([8]) lên đường hành đạo. Một năm phải đầy quyết liệt ([9]) hoàn thành sứ mạng, phải đấu tranh mạnh mẽ với lòng mình để được toàn thắng mà hầu việc cho Thầy.([10])
Đường lối bảo pháp, Hành Chánh ([11]) phải được minh minh bạch bạch,([12]) làm cho thánh thể ([13]) mạnh lành, tổ chức rộng lớn, hàng ngũ chặt chẽ, trên dưới trật tự, trong ngoài phân minh, quyền hành tôn trọng lẫn nhau, nhất là nội tâm thanh tịnh, ngoại cảnh an nhiên.([14]) Nhớ lấy luật Trời: Tài giả bồi chi; khuynh giả phúc chi.([15]) Hễ nên thì được giúp đỡ cho lớn mạnh, bằng ([16]) hư hỏng thì bị xô đổ. Đó là vật cạnh thiên trạch ([17]) vậy.
Xuân năm nay cả một sự đen tối. Nếu không tinh minh,([18]) dõng mãnh thì khó phân biệt chánh tà để đưa mình lên thiên vị.([19])
Thôi, chư hiền thành tâm đón Cái Thiên Cổ Phật.([20]) Bản Quân xuất cơ.
TIẾP ĐIỂN
THI
QUAN hà ([21]) gắng bước, dặm còn xa
THÁNH đức làm cho hiển hiện ra
ĐẾ đạo ([22]) hiệp nhau xây dựng lại
QUÂN tâm thanh tịnh dắt dìu qua.
Lão chào chư Thiên ân, chư đạo tâm nam nữ.
Giờ nầy Lão đến cùng chư hiền với một mối tình thiêng liêng hứa hẹn.
Chư hiền cũng như toàn dân, mỗi một năm phải phí sức lao tâm, quằn quại trong chuỗi ngày đầy mệt nhọc, khốn đốn. Trải qua nắng hạ mưa đông làm cho thân con người chịu trăm ngàn khó nhọc. Nào đường nầy ngõ nọ, nỗi áo cơm phần phục dịch cho xã hội nước nhà, chờ lấy một ngày xuân để hồi sinh sức sống.
Nhưng xuân đi xuân lại đã bồi đắp cho loài người không biết bao nhiêu, mà rồi cũng không bù nổi sự tàn phá tiêu hao của cảnh tháng buốt ngày thiêu ([23]) chặt đẽo. Đó là tại lòng mình thiếu tự chủ, chạy theo ngoại cảnh mà cam khổ trọn đời.
Xuân có hiện có ẩn, nhưng đâu phải lúc tới lúc lui.([24]) Sự sống khi thiếu khi thừa, nào phải tách rời thân thể. Nên nói đến xuân, chỉ có người biết chủ ([25]) lấy mình mới hưởng trọn lẽ sống đời đời. Lẽ sống ấy là xuân thì người nào lại không được quyền sống vĩnh cửu? Vì người không chủ ([26]) ở lòng mình, cứ chạy theo cảnh sắc bên ngoài, như xuân đến thì vui, xuân đi thì khổ, có dựa được thì vững, không nương được thì nhào. Người mà ỷ lại,([27]) người sống như thế làm sao an vui mạnh khỏe?
Hôm nay Lão muốn nói qua về thời độ của xuân Kỷ Hợi là một hồng ân vô cùng, mà Thầy gọi là xuân huyền cơ thánh đức,([28]) trong đó có nhiều ý tứ sâu xa. Nếu kẻ không thanh tịnh làm sao đón được huyền cơ,([29]) mà người chẳng thánh tâm sao nên thánh đức? Đã nói xuân thánh đức là nói một cuộc thi thử thách chọn lựa, thì người nhẹ tâm, tin yếu ([30]) làm sao hưởng lấy hồng ân?
Đời đã đến một ngày đầy khó khăn đen tối; người tu hành phải biết để chơn đưa bước ([31]) trong những khổ đau. Hiện tình nội bộ nền đạo gặp phải không biết bao khó khăn. Chánh pháp đã lem ố. Một thánh thể chia xẻ nhiều mảnh nhỏ to.([32]) Con cái của Thầy bơ vơ, thiếu người hướng đạo.([33]) Nếu nơi nầy([34]) không sớm mạnh dạn đứng ra cứu chuộc ([35]) lại tên tuổi Đạo Trời, không đem quyền pháp được ban mà hàn gắn cho thánh hình ([36]) lành mạnh,([37]) không quyết lòng vì sứ mạng thì muôn vạn sanh linh sẽ sa bước vào hố thẳm hang sâu.
Không vì đạo thương đời làm sao mở một kỷ nguyên xán lạn cho ngày mai? Không buông bỏ danh lợi thân gia ([38]) thì ai là người lãnh lấy trách nhiệm trung hưng chánh pháp?([39]) Vì vậy đầu xuân năm nay thiết đàn hồng thệ ([40]) để cho chư Thiên ân tự nhiệm ([41]) lấy quyền pháp mà xây dựng một Hội Thánh lành mạnh.
Vì sự nghiệp nơi nầy đã sẵn một thành tích làm nền móng cho công cuộc kiến tạo cơ sở đạo pháp, các hiền Thiên ân ngồi lại, bình tĩnh mà kiểm điểm việc làm vừa qua và sứ mạng sắp tới. Nếu không mạnh dạn bước lên lãnh lấy chương trình thì cũng đáng tiếc cho bao nhiêu năm xây dựng.
Về việc Phổ Tế năm nay, muốn cho nền đạo được mạnh mẽ tỏ sáng thì phải theo một nguyên tắc chung là bắc cầu sang qua các chi phái để ngọn đuốc trung hưng được soi rọi khắp nơi.
Phải đánh trống khua chuông giục thúc đạo tràng,([42]) xây dựng một nền Phước Thiện cho giữa nhau có một phong hóa([43]) đạo đức, một đời sống êm thắm mỹ miều, một tinh thần đồng đạo yêu thương, chia bằng ([44]) sức sống, làm cho nền trung hưng giáo lý có một tài liệu thiết lập chánh pháp ở lòng người, mạnh mẽ nói lên bằng lời bằng bút, bằng lòng cầu nguyện, bằng sự tu hành của mình.
Gần trước xa sau, nhứt là làm cho nội bộ cảm thông, có một đức tin theo một đường lối, để cho toàn diện được nhận thấy sứ mạng trung hưng mà nguyện hy sinh xây dựng đạo.
Thôi, ban ơn chư hiền một năm không ngày nào vắng khí xuân, một năm đầy hồng ân sứ mạng. Chào.
TIẾP ĐIỂN
THI
          QUAN khiếu ([45]) khai thông, pháp thể thành
          ÂM dương hòa hiệp, đạo tâm sanh
          BỒ đề đã mở đời an trị
          TÁT (Tác) lập xuân tâm, trọn phước lành.
Bần Đạo chào chư hiền Thiên ân, chư đệ, chư muội.
Giờ nầy hồng ân đã đến ban cho toàn đạo một nguồn xuân thánh đức đầy dẫy sự sống và tình thương.
Sức sống được chảy khắp đó đây thì vạn vật trên đời được hồi sinh, người người ấm no lành mạnh. Nếu nước sống không trôi chảy thì đời sống phải lầm than.([46]) Cảnh sống không đồng đều thì gây nên chiến tranh, trộm cướp. Tình thương đẩy xua hắc ám trong đời. Tình ấy ban ra thì vạn vật cỏ hoa mới an toàn, bảo đảm.
Vì vậy, sinh cơ bảo thọ Phước Thiện làm nền tảng hòa bình, xây dựng con người theo lẽ đạo, ở ăn san sẻ cho nhau. Muốn tạo cảnh đại đồng, trước nhất phải làm cho trong nội bộ đầy lòng bình đẳng, bác ái. Nên xây dựng Phước Thiện là xây dựng thế đạo; lấy thế đạo để làm đà tiến lên thiên đạo. Thiên đạo thành bởi thế đạo được lập. Thế đạo có lập, cảnh đời mới thiệt hạnh phúc tự do. Xây đắp nền hạnh phúc nhơn gian ([47]) bởi vậy phải mượn những tay môn đệ đã được đạo đức, vô ngã vô nhơn.([48])
Nền đạo phải được trung hưng không bởi Phổ Tế mà bởi Phước Thiện để làm chứng minh.([49]) Ai là kẻ thương đời mến đạo nên đóng góp vào công cuộc Phước Thiện. Mặc dù hoàn cảnh cho phép hay không, sự nghiệp ấy có trải qua trăm ngàn thất bại, nhưng sẽ đem lại nhiều thành công cho hậu nhựt,([50]) cho lịch sử truyền đạo không nhỏ.
Chư Thiên ân cố gắng xây dựng thế đạo. Chư đạo hữu tận tâm bồi đắp Phước Thiện cho thành hình. Hễ quyết tâm thì có ngày kết quả. Toàn đạo dốc dạ chơn thành lo tu, đứng vững trong hàng ngũ, đừng tự tiện tách ngoài tổ chức mà phải ăn năn.
Xuân năm nay trong nội bộ được hồng ân đã ban thưởng cho công trình ([51]) cố gắng. Nếu không cố gắng thì khó lòng đứng yên, lựa là ([52]) tiến tới. Đã cố gắng thì nên nhắm vào mục đích. Đừng lấy sau làm trước. Đừng lấy công làm tư. Đã cố gắng thì phải cố gắng cho đến cùng. Đừng vì một trở ngại mà ngã lòng.([53]) Đừng sợ sức mạnh mà [vượt] ([54]) qua quyền pháp.
Từ nay trở đi, trên con đường hành đạo còn trải qua nhiều gay go, phải nhẫn nại bình tĩnh. Mọi việc chi cũng đều có Thầy, có Phật Tiên soi dẫn, che chở cho cả. Phải đi qua một đoạn đường như thế, là để cho người Thiên ân trở nên xứng đáng làm hướng đạo sau này. Để cho toàn đạo một chuỗi đời mệt nhọc, mới đủ công lao xứng đáng trong thánh thể Tam Kỳ. Mà đời càng khó thì đạo càng hay. Một lần đổi thay là một lần quyền pháp minh định.([55])
Thôi, Bần Đạo ban ơn lành cho toàn đạo một năm xuân đầy ơn phước.
TIẾP ĐIỂN
THI
          THÁI vận ([56]) đã gần, ráng đợi Ta
          BẠCH minh ([57]) cho rõ chánh hay tà
          KIM niên ([58]) mở lối, mau quày bước
          TINH tấn ([59]) lòng mình, sớm vượt qua.
Lão chào chư Thiên ân, chư đạo đệ, đạo muội.
Chư Thiên ân và toàn đạo ôi! Đời là một trường đấu tranh. Nhơn loại lầm than, khổ sở. Người Thiên ân lẩn quẩn trong bầu u ám lợi danh. Kẻ vì đời muốn cứu nhơn loại ra khỏi cảnh tiêu vong, tàn phá cũng không biết phóng một con đường nào cho đến chỗ hòa bình, hạnh phúc.
Đời hạ nguơn là buổi hỗn độn, điêu tàn. Cảnh tận diệt ([60]) diễn ra mỗi ngày cho đến khi quả địa cầu tan vỡ. Nay là thời hành phạt,([61]) nhơn loại chịu lãnh lấy cộng nghiệp ([62]) trả trả vay vay.
Thầy không nỡ ngồi nhìn đàn con trong cảnh tang thương nên mở cơ tận độ,([63]) thị hiện ([64]) tại thế gian nầy, dựng nên một đạo lớn, quy Tam Giáo hiệp Ngũ Chi, đem cả lương sanh ([65]) dựng nên thánh thể. Thánh thể được hình hiện ([66]) thì bốn biển thái bình, nhơn loại trên mặt địa cầu đều là đồng bào huynh đệ.
Nhưng ngày giờ chưa đến, thái vận còn đen, nên thánh hình đành để cho quỷ vương phanh phui, chia cắt. Thánh hình lúc ẩn lúc hiện, khi hiệp khi tan. Tan hiệp là quyền pháp nhiệm mầu biến thông của cơ Tạo Hóa. Điều đó các hiền chưa nên biết.
Bây giờ đã đến ngày hồng ân, pháp đạo được Thầy ban sứ mạng cho nơi nầy để xây đắp một Giáo Hội lành mạnh, thì các hiền cũng nên đoái ([67]) lại muôn vạn sanh linh còn nổi trôi trong bể khổ đương cầu cứu, đoái lại một thánh thể bị phanh phui.
Thánh thể là con thuyền tế độ ([68]) vớt chúng sanh nơi bể khổ. Nếu lòng biết thương đời vì đạo, thì đâu tọa quan thành bại ([69]) trước bao nhiêu cảnh tượng ác liệt đương biểu diễn tung hoành.
Thuyền cần phải lướt sóng, vượt bể ra khơi để cứu người hụp lặn. Hiện tình thuyền đạo mỗi nơi một mảnh, phải làm sao ghép lại cho thành. Nghĩa là nội bộ lần lượt hiệp một. Muốn hiệp một thì quyền pháp trung hưng phải được lành mạnh.
Nơi đây từ lâu tinh thần toàn đạo được duy nhất. Người hướng đạo lúc nào cũng thiết tha hoài bão ([70]) cho nhơn sanh đạo đồ,([71]) lúc nào cũng ân cần ([72]) lo tu, lo đóng góp công trình vào việc xây dựng Hội Thánh. Lòng ấy đã có, trên lịch sử truyền đạo còn ghi; nhưng Lão còn lo mỗi thời mỗi thay, mỗi ngày cơ thử thách tinh vi càng khổ. Bước đạo đến đây phải có người Thiên ân vững vàng, người đạo đồ chắc chắn mới mong toàn hảo, mạnh lành.
Vì lẽ trên, và cũng còn bao sự oái ăm, tế nhị hơn nữa, phải xây dựng một Hội Thánh. Xây dựng một Hội Thánh, yếu t([73]) là người Thiên ân quyền pháp. Có người Thiên ân quyền pháp rồi, nền đạo mới được vững chắc sáng tỏ, giáo lý mới được ứng dụng khắp nơi, vì người Thiên ân là người vượt mọi danh lợi thế gian, hy sinh tất cả những cái gì mà đời không sao lìa bỏ, thiếu được. Người hướng đạo giẫm trên lối sống thông thường của đời, đem thân phận gánh vác cho nhơn sanh nên được người cảm mộ và tin tưởng. Vì đời nay dù thuyết nào có hay, tài nào có hơn hết, rồi cũng không khỏi danh và lợi mà thôi. Người nào ngoài danh lợi mới thiệt thương đời vì đạo.([74])
Hôm nay Lão muốn cùng chư hiền xúm tay xây dựng một nền chánh pháp cho được vững chắc. Các hiền cùng Lão quyết liệt đứng ra làm tiêu biểu cho quyền pháp mới mong hoàn thành sứ mạng trung hưng. Nếu trì hoãn, lựa lần ([75]) thì một số người có tâm từ xưa, nay sẽ lọt vào tay quỷ vương, bao nhiêu môn sanh trong nền đạo ngẩn ngơ lạc bước. Đạo tình ([76]) nhiều mối xíu xăng ([77]) như cuộn chỉ rối bời, sao phăng([78]) ra được mối. Nhưng đã có công thì thủng thẳng cũng gỡ ra. Phải bền chí, kiên gan mới được. Nếu vì mệt nhọc mà buông đi, thì kẻ khác họ thấy họ cũng lấy ném vào trong lửa cho khỏi kẻ đá qua, người đá lại.
Ôi! Nói đến cuộn chỉ rối, mà Lão không sao yên dạ. Chắc chư hiền thấy vậy hổ ([79]) lắm nhỉ?
Đã đồng danh đồng phận,([80]) làm sao không nghĩ đến sự cứu chuộc cho danh nghĩa về sau, cho nhơn sanh khỏi vì đạo mà chôn thân nơi nhục hổ.
Vậy chư Thiên ân và toàn đạo đừng nên riêng rẽ mà phải có một con đường để cứu vãn tình cảnh đó.
(. . .)
Lão chào chư hiền.


([1]) quân tâm 均心 (mind of equilibrium): Tâm quân bình, không thiên lệch.
([2]) gội hồng ân (being showered with great blessings): Đón nhận rất nhiều ơn phước to lớn ban xuống, chan chứa đằm đìa như được tắm gội.
([3]) Bản Quân, Bổn Quân 本君 (a formal form of addressing oneself): Bản cũng nói là Bổn. Đức Tiếp Văn Pháp Quân tự xưng Bản/Bổn Quân. Một vị Thánh thì xưng Bản/Bổn Thánh 本聖. Một vị Thần thì xưng Bản/Bổn Thần 本神. Một vị Thánh Nương thì xưng Bản/Bổn Nương 本娘. Một vị vương thì xưng Bản/Bổn Vương 本王. Một vị quan chức thì xưng Bản/Bổn Chức 本職. Đời Tống (Trung Hoa) ông Bao Công cai quản phủ Khai Phong nên thường tự xưng là Bản/Bổn Phủ 本府. Ngày xưa, một sứ thần nói với người nước khác thì gọi nước mình là Bản/Bổn Quốc 本國 (nước của tôi). Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn khi giáng cơ, nói với đàn em thì xưng Bản/Bổn Huynh 本兄.
([4]) Tam Trấn: Ba vị Tam Trấn Oai Nghiêm 三鎮威嚴. Sau khi Đức Tiếp Văn Pháp Quân báo đàn, ba vị Tam Trấn lần lượt giáng cơ theo thứ tự là Quan Thánh Đế Quân (Tam Trấn), Quan Âm Bồ Tát (Nhị Trấn), và Thái Bạch Kim Tinh (Nhứt Trấn).
([5]) giáo pháp 教法 (teaching dharma): Dạy đạo.
([6]) Minh Tra 明查 (the Inspecting Organ): Bộ phận bảo pháp Hiệp Thiên Đài. Minh Tra cùng với ba cơ quan Phước Thiện, Hành Chánh, Phổ Tế hợp thành Tòa Nội Chánh của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Ơn Trên ví Phổ Tế, Phước Thiện là hai tay; Hành Chánh, Minh Tra là hai chân.
([7]) dọn mình (chuẩn bị tự kỷ 準備自己: preparing one’s body and mind): Chuẩn bị thân tâm cho xứng đáng để đón nhận hồng ân và sứ vụ do Ơn Trên giao phó.
([8]) sứ mạng 使命 (mission): Lệnh sai phái và phải làm xong.
([9]) quyết liệt 決烈 (resolute): Kiên quyết, mạnh mẽ, dứt khoát.
([10]) hầu việc cho Thầy (serving our Master): Khiêm tốn, tận tụy và luôn sẵn sàng chờ nhận lịnh Thầy sai bảo, giao phó công việc.
([11]) Hành Chánh 行政 (the Administrative Organ): Cùng với ba cơ quan Minh Tra, Phước Thiện, Phổ Tế hợp thành Tòa Nội Chánh của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
([12]) minh minh bạch bạch 明明白白 (very apparent, very obvious): Rất minh bạch 明白, rất rõ ràng.
([13]) thánh thể 聖體 (holy body): Thánh thể của Đức Chí Tôn tại thế gồm Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài. Thánh thể là các thánh thất (hay thánh tịnh), Tòa Thánh, Hội Thánh.
([14]) nội tâm thanh tịnh 內心清淨 (having the innermost feelings purified and tranquil): Lòng không bị ảnh hưởng của ham muốn và ngoại cảnh. ngoại cảnh an nhiên (having the mind at rest, uninfluenced by external circumstances): Thản nhiên, bình thản trước những biến động ở bên ngoài; không để ngoại cảnh ảnh hưởng tới nội tâm.
([15]) Tài giả bồi chi; khuynh giả phúc chi: Trung Dung, chương 17, có câu: Cố tài giả bồi chi; khuynh giả phúc chi. 故栽者培之; 傾者覆之. James Legge (1815-1897) dịch: Hence the tree that is flourishing, it nourishes, while that which is ready to fall, it overthrows. Charles Muller (sinh năm 1953) dịch: Thus, Heaven nourishes the growing sprout, and throws down the leaning tree. Để dễ hiểu, thử ví dụ: Nhà nông ra thăm rẫy, thấy cây nào sởn sơ, tươi tốt thì chăm bón thêm cho mau phát triển; trái lại, gặp cây nào èo uột, xơ xác, và liệu bề nó không thể nào lớn mạnh được nữa thì liền nhổ đi, dành chỗ cho cây khác tăng trưởng.
([16]) bằng (if): [cổ] Nếu.
([17]) vật cạnh thiên trạch: Nói đầy đủ là vật cạnh thiên trạch; thích giả sinh tồn 物競天擇; 適者生存 (Survivors are the ones that best fit natural selection). Muôn vật cạnh tranh (giành sống) với nhau theo sự chọn lựa tự nhiên trong trời đất; nếu thích nghi được thì sống sót. Chưa rõ ai nói câu này.
([18]) tinh minh 精明 (astute, shrewd; having an ability of accurate assesment or sharp judgement): Có khả năng đánh giá chính xác, sắc bén.
([19]) thiên vị 天位 (heavenly position): Vị trí (ngôi vị) trên cõi trời.
([20]) Cái Thiên Cổ Phật 蓋天古佛: Vị Phật xưa [oai đức] trùm khắp bầu trời. Đây là một hồng danh của Đức Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
([21]) quan hà 關河 (mountain pass and river; fig., a faraway journey): Cửa ải và sông. Ám chỉ đường xa. Chén quan hà là chén rượu tiễn người đi xa.
([22]) đế đạo 帝道 (the way of the emperor): Cũng gọi vương đạo 王道 (the way of the king), là đường lối cai trị nhân bản (humanistic rule), lấy đạo lý làm nền tảng, cũng gọi nhân trị 仁治 (rule of benevolence). Ngược lại chính sách này là bá đạo 霸道 (the way of the hegemon), tức là đường lối cai trị dùng bạo lực đàn áp, dùng hình phạt tàn khốc để dân chúng sợ hãi không dám phản kháng.
([23]) tháng buốt ngày thiêu (days and months of extreme coldness or burning heat): Tháng ngày hoặc quá lạnh, hoặc quá nóng.
([24]) đâu phải lúc tới lúc lui: Lúc nào cũng là mùa xuân đối với người đạt đạo.
([25]) chủ (mastering): Làm chủ, không mất khả năng kiểm soát.
([26]) không chủ (losing mastery over sth): Không làm chủ, mất khả năng kiểm soát việc gì.
([27]) ỷ lại 倚賴 (dependent): Nương dựa người khác.
([28]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.
([29]) thanh tịnh: Khi báo đàn, Đức Tiếp Văn Pháp Quân nhắc nhở mọi người giữ nội tâm thanh tịnh. Khi dạy bài này, Đức Quan Thánh cũng khuyên giữ tâm thanh tịnh để đón được huyền cơ.
huyền cơ  (mysterious principles): Cơ mầu; những nguyên lý mầu nhiệm. (minute sign) là dấu hiệu nhỏ nhặt, điềm mới khởi, triệu chứng mới vừa xuất hiện. Huyền  (mysterious) là ảo diệu, sâu xa, rất khó nhận ra, rất khó nắm bắt. Huyền cơ là dấu hiệu rất kín nhẹm mà Trời hé lộ cho người Thiên ân sứ mạng tìm hiểu để kịp thời kiến cơ nhi tác 見幾而作 (nhìn ra dấu hiệu kín nhẹm mà hành động đúng lúc, không bỏ mất cơ hội).
Người hướng đạo, bậc Thiên ân sứ mạng nếu tâm không thanh tịnh, bị chi phối bởi thứ này hay thứ khác thì khó mong đón nhận huyền cơ, và rốt cuộc đành lỡ mất tín hiệu được Trời nhắn gởi (missing a God’s message).
([30]) nhẹ tâm, tin yếu: Lòng đạo không bền, đức tin yếu ớt.
([31]) để chơn đưa bước: Đặt chân bước tới.
([32]) Một thánh thể chia xẻ nhiều mảnh nhỏ to: Tôn giáo Cao Đài bị phân hóa từ đầu thập niên 1930.
([33]) hướng đạo 向導 (those who lead their coreligionists): Người dẫn dắt đạo hữu.
([34]) nơi nầy: Trung Hưng Bửu Tòa (Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài).
([35]) cứu chuộc (cứu thục : redeeming sb, redemption): Cứu là cứu nguy, cứu thoát (rescuing sb, saving sb). Chuộc (từ thuần Việt, chữ Nho là thục ) nghĩa là đem một món gì ra đánh đổi một hình phạt (lấy công chuộc tội; chữ Nho là tương công thục tội 將功贖罪: redeeming one’s crime[s] by meritorious acts).
Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, cơ cứu chuộc mở ra khi Đức Giê-su hy sinh trên thập giá, lấy mạng sống của Chúa làm giá chuộc (thục giá 贖價: ransom) cho tội lỗi chúng sinh (xem Mát-thêu 20:28 và Mác-cô 10:45).
Trong Tam Kỳ Phổ Độ, cơ cứu chuộc mở ra khi Đức Chí Tôn (Thầy) phế Bạch Ngọc Kinh xuống trần mở đạo Cao Đài với đại nguyện trước Công Đồng Tam Giáo rằng lập Đạo không thành thì Đức Chí Tôn không trở về ngôi vị cũ.
Cứu chuộcgiá chuộc là thuật ngữ đạo Chúa. (Xem: Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài. Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2019, tr. 20-29 và 37-41.)
([36]) thánh hình 聖形 (holy form): Thánh thể 聖體 (holy body).
([37]) lành mạnh: Trong đàn này, ở phần sau Đức Quan Thánh còn nói tới xây dựng một Hi Thánh lành mnh. Kế tiếp, Đức Quan Âm Bồ Tát dạy phải xây đắp một Giáo Hi lành mnh.
Lành mạnh (healthy) là không bệnh tật. Một thánh thể (thánh hình, Hội Thánh, Giáo Hội) đã bị phanh phui (chia năm xẻ bảy) thì chẳng khác gì một cơ thể không còn lành lặn, bị bệnh tật rỉa rói. Thấm thía hai chữ lành mạnh mà Ơn Trên lặp đi lặp lại trong thánh giáo này thì càng đau xót trước thực trạng tôn giáo Cao Đài, và càng thấy sứ mạng trung hưng của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài quả thật to tát vô cùng, mà đồng thời cũng nặng nề biết bao nhiêu.
([38]) thân gia 身家 (an individual and his or her family): Bản thân và gia đình mình. danh lợi thân gia (the fame and profit of an individual and his or her family): Danh vọng và quyền lợi cho bản thân và gia đình mình.
([39]) trung hưng chánh pháp 中興正法 (restoring the true dharma): Làm cho chánh pháp từ chỗ suy yếu, sứt mẻ trở lại vững mạnh, toàn vẹn.
([40]) hồng thệ 洪誓 (solemn pledge): Lời thề rất hệ trọng. thiết đàn hồng thệ (setting up an altar for taking a solemn pledge): Lập đàn để lập lời nguyện lớn thọ nhận sứ vụ thiêng liêng trước Ơn Trên.
([41]) tự nhiệm 自任 (undertaking sth oneself): Tự mình nhận lãnh, gánh vác, đảm đương.
([42]) đạo tràng, đạo trường 道場 (religious premises): Chỗ tu học, nơi sinh hoạt tôn giáo (chùa, thất, thánh đường, thiền viện, tu viện…).
([43]) phong hóa 風化 (public morals): Tập tục (phong tục) đã được dạy bảo (giáo hóa) và trở thành đạo đức chung cho một nước.
([44]) chia bằng (equally dividing sth): Quân phân 均分, chia đều.
([45]) quan khiếu 關竅: thuật ngữ tu đơn, để gọi những lỗ trống trong thân thể mà hành giả vận khí đi qua đó. Phép đạo dẫn 導引 cho rằng luyện tinh hóa khí, và khí phải đi qua quan  (trạm gác, cửa ải). Theo y học cổ truyền, trên mạch Nhâm và mạch Đốc  trong thân người có nhiều lỗ khí (khí huyệt 氣穴) và cũng có nhiều trạm gác (quan ). Hành giả tu đơn dẫn khí qua các trạm gác này để vận hành khí đi khắp toàn thân. Trước tiên, người tu luyện phải dẫn khí đi qua ba trạm gác hay cửa ải lớn (đại quan 大關) là Vĩ Lư 尾閭, Giáp Tích 夾脊, và Ngọc Chẩm 玉枕; sau đó mới có thể luyện thành công phu châu thiên 周天.
([46]) lầm than (miserable, wretched): Vất vả, cơ cực, khổ sở.
([47]) nhơn gian 人間 (the human world): Cõi người ta.
([48]) vô ngã vô nhơn 無我無人 (without distinction between self and others): Không còn phân biệt ta và người, có lòng vô tư của trời đất, như hạt mưa, giọt nắng vẫn ban đều khắp cho người hiền lành lẫn kẻ không hiền lành. Kinh Thánh nói về tâm thiên địa (lòng trời đất) của Đức Thượng Đế như sau: Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. (Mát-thêu 5:45).
([49]) Trải qua nhiều năm chiến tranh liên tục, cuộc sống phần đông đạo hữu miền Trung cuối thập niên 1950 còn quá khổ nhọc; do đó việc phục vụ dân sinh (vai trò Phước Thiện) được ưu tiên hơn nâng cao dân trí (vai trò của Phổ Tế). Có thực mới vực được đạo.
([50]) hậu nhựt 後日 (in the future): Ngày sau, tương lai.
([51]) công trình 功程 (skill and long-time effort): Sự khéo léo và công sức khó nhọc trong thời gian dài. Cùng nghĩa công phu.
([52]) lựa là (much less, still less): Lọ là, nói chi là, huống chi, huống hồ, huống gì.
([53]) ngã lòng (losing heart, becoming discouraged): Thối chí, nản chí.
([54]) Chữ trong dấu [. . .] là do chúng tôi thêm vào.
([55]) minh định 明定 (clarifying): Xác định rõ.
([56]) thái vận 泰運 (favourable fortune): Thời vận suôn sẻ, hanh thông.
([57]) bạch minh (minh bạch 明白: obvious, unequivocal): Sáng tỏ, rõ ràng, không có chỗ nghi ngờ.
([58]) kim niên 今年 (this year): Năm nay.
([59]) tinh tấn 精進 (dedicating oneself to progress on the way of self-cultivation): Luôn luôn chuyên tâm nhất trí, cố gắng không ngừng để tiến bộ trên đường tu thân học đạo.
([60]) tận diệt 盡滅 (extermination, complete destruction): Tiêu diệt hết tất cả, hủy diệt hoàn toàn.
([61]) hành phạt 行罰 (torturing sb; punishing sb): Làm cho cực kỳ khổ sở, điêu đứng; bắt tội, trừng phạt.
([62]) cộng nghiệp 共業 (collective karma): Nghiệp xấu mà cả một tập thể phải cùng nhau chung chịu trả quả.
([63]) tận độ (saving all): Cứu độ hết tất cả.
([64]) thị hiện 示現 (appearing): Bày ra, hiện rõ cho mọi người thấy.
([65]) lương sanh 良生 (good humans): Những người tốt, đạo đức.
([66]) hình hiện 形現 (manifesting sth, displaying sth): Phô bày cho thấy rõ.
([67]) đoái (being moved and thinking of, or looking at): Thương tình mà nghĩ đến (đoái hoài, đoái tưởng), hoặc nhìn đến (đoái nhìn).
([68]) tế độ 濟渡 (saving sb): Cứu vớt con người khỏi bể khổ sông mê, giống như đưa thuyền đến vớt kẻ chết đuối chở sang bờ bên kia. (Tế là qua sông, đồng nghĩa với độ.)
([69]) tọa quan thành bại 坐觀成敗 (sitting and awaiting success or failure): Ngồi yên chờ xem sự việc thành công hay thất bại.
([70]) hoài bão 懷抱 (cherishing sth, embracing sth): Ôm ấp, ấp ủ trong lòng (một lý tưởng hay một ước vọng cao đẹp).
([71]) đạo đồ (giáo đồ 教徒: disciple, follower): Môn đồ một tôn giáo.
([72]) ân cần 殷勤 (solicitous and attentive): Quan tâm, để tâm lo liệu.
([73]) yếu tố 要素 (essential factor, key constituent): Nhân tố trọng yếu; bộ phận quan trọng cấu thành một vật, sự việc, hiện tượng.
([74]) Yếu tố xây dựng Hội Thánh lành mạnh chính là người Thiên ân hướng đạo có đủ quyền pháp, vượt lên mọi danh lợi thế gian.
([75]) lựa lần (hesitating): Lần lữa, trì hoãn.
([76]) đạo tình (situation of the Caodai religion): Tình hình, hoàn cảnh tôn giáo Cao Đài.
([77]) xíu xăng (tangled): [cổ] Rối rắm, rối nùi.
([78]) phăng (phăn): Lần mò, vịn vào cái gì mà từ từ bước tới. Thường nói phăng lần, lần phăng.
([79]) hổ (ashamed): Xấu hổ, hổ thẹn.
([80]) đồng danh đồng phận 同名同分 (of the same status): Cùng một danh nghĩa (là trong cùng một Hội Thánh, một tôn giáo Cao Đài) và chung một phận sự (là trung hưng chánh pháp Kỳ Ba).
Huệ Khải chú thích
Lê Anh Minh hiệu đính
Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2020