Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

14. NÊN CỞI MỞ

14. NÊN CỞI MỞ LO TU HÀNH
Tu xá Phước Huệ Đàn (Tam Kỳ, Quảng Nam)
ngày 16-3 Kỷ Hợi (Thứ Năm 23-4-1959)
THI
NGÔ MINH lãnh lịnh giáng Lần Ba
CAO trọng gầy nên cảnh Bửu Tòa
TIÊN Phật Thánh Thần vầy ([1]) một Đạo
Mừng trong thế giới chịu ơn Ta.
Chào chư liệt đẳng ([2]) hiền đồ. Nội ngoại thành tâm nghe dạy. Đẳng đẳng ([3]) an vị.
PHÚ
Phước Huệ Đàn là nơi ban bí pháp ([4])
Chư hiền đồ hội hiệp chịu ơn Ta
Tu làm sao cho được chứng tam hoa ([5])
Tâm phàm tử mới sanh tâm thánh đức.([6])
Đã quyết chí xuất gia tìm lẽ thật
Ngại ngùng chi chẳng dứt trái oan lòng
Đã theo Già ([7]) lánh đục để tìm trong
Thì còn mãi lòng vòng ([8]) chi chẳng quyết.
Có tu được thì phàm phu mới diệt ([9])
Diệt tham sân, nhứt thiết ([10]) tội tình tiêu
Phăng ([11]) Đạo mầu, lần đến chốn cao siêu
Lòng thong thả, mai chiều du thiên ngoại.([12])
Giờ ra sức lập công tu học hỏi
Bến sông mê thoát khỏi mới thanh nhàn
Tỉnh ngộ rồi mau lẹ sớm lo toan
Đừng dụ dự, chàng ràng,([13]) tục Tiên cũng muốn.
Hễ đi lên thì sao còn trở xuống
Xuống A Tỳ chừng muộn mới ăn năn
Hễ là tu, đoạn dứt mối trần căn ([14])
Lòng thanh tịnh, lương năng ([15]) thêm sáng tỏ.
Đi đi tới, đừng ngó đây trông đó
Mạnh mẽ lên, đen đỏ ([16]) kết oan tình
Biết Đạo rồi giữ trọn chữ trung trinh ([17])
Không đắm đuối để kiếp sinh ([18]) tồi tệ.
Nhớ nơi lòng, đinh ninh ([19]) lời hồng thệ ([20])
Dứt khoát đi, Ngọc bệ ([21]) có đơn thơ ([22])
Đừng đứng đây mơ mộng ngẩn ngơ
Cơn kiếp chót bến bờ đâu được dựa.
TÁI CẦU
Ngoài trời ([23]) thong thả khỏe lòng Tiên
Cỡi gió nương mây rảo khắp miền
Một túi kim đơn ([24]) hằng ([25]) độ chúng
Lợi danh không bận ([26]) mới bình yên.
Chào và ban ơn chư hiền đồ. Thành tâm an vị.
BÀI
Ngoài thế tục thung dung ngày tháng
Trong trần ai đòi đoạn ([27]) khổ sầu
Cuộc đời nào có gì đâu
Dinh hư, tiêu trưởng ([28]) một bầu tang thương.([29])
Người giác ngộ tìm đường diệt khổ
Sớm hồi đầu ([30]) nương chỗ chơn không         
Tự do tu học rèn lòng
Thoát ngoài ảo hóa ([31]) thong dong thanh nhàn.
Đời mạt kiếp ([32]) một tràng ([33]) khổ não
Lo tu hành kết tạo làm chi
Có Thầy có bạn cùng đi
Men ([34]) đường giải thoát kịp kỳ Long Hoa.
Nay ân phước nơi Cha nhỏ đến
Biển trần, ai tỏ bến thấy bờ ([35])
Gắng công tiến đến huyền cơ
Chịu theo quyền pháp, đơn thơ triệu hồi.([36])
Tu mạnh lên, đừng ngồi bàn nhảm
Dốc lòng tin, chớ phạm giới quy
Có đi, lẹ lẹ mà đi
Trông đây ngắm đó, trù trì,([37]) ăn năn.
Tu phải quyết, dùng dằng sao nữa
Tu phải toan gội rửa bợn đời
Nếu còn tu giỡn tu chơi
Thiên oai ([38]) đến lúc, kêu Trời uổng công.
Trò nào quyết thông công ([39]) đạt pháp
Trò nào toan mới lập vị ([40]) cao
Trò nào lòng dạ đảo chao
Giặc lòng xô xát làm sao chứng thành.
Đây nhà tu Thầy dành cho đó
Dành cho người dứt bỏ ái ân
Dành cho những đứa lánh trần
Dành cho tâm đạo ân cần ([41]) ham tu.
Nếu trái lại, ngục tù hành khổ
Ở vào đây là chỗ cầm giam
Giam ai tâm địa mê phàm
Mang danh giải thoát, luyến ham thế tình.
Người thiệt tâm Thánh Linh ([42]) mới ngự
Thiệt tâm rồi ân tứ ([43]) đến cho
Thiệt tâm phước đức đến trò
Luôn luôn hưởng được tự do mạnh lành.
Quyết tu đi, đồng thanh đồng khí ([44])
Quyết tu đi, đồng chí đồng tình ([45])
Tu rồi đâu có trọng khinh
Đâu còn giai cấp, bất bình riêng tư.
Tu đi trò, khỏi hư khỏi hoại
Tu đi trò, khỏi loại khỏi hèn
Tu tròn, muôn thuở được khen
Tu thành, chín phẩm tòa sen vui vầy.([46])
Phải nhân danh bởi Thầy mà nói
Nhân danh Thầy mới khỏi kiêu căng ([47])
Tiếp giao mới được công bằng
Nghiệp oan tiêu giải, Xa Tăng ([48]) không gần.
Nhân danh Thầy tu thân hành đạo
Thầy gần trò toàn hảo biết bao
Không Thầy, ma quỷ xôn xao
Thầy, Thiên sứ ([49]) ra vào viếng thăm.
Không có Thầy, tối tăm khốn khổ
Thầy rồi nhứt lộ đồng đăng ([50])
Thầy là manh mối tìm phăng
Thầy là lẽ thật, con đàng vĩnh sanh.([51])
Muốn gần Thầy, phải thanh phải tịnh
Tịnh định thì bản lĩnh vững vàng
Định rồi phóng chiếu hào quang
Thông thiên đạt địa,([52]) hàm tàng ([53]) huyền cơ.
Lấy quy giới làm bờ ngăn dục
Lấy đức tin quy phục quyền năng
Vận hành thần khí giáng thăng
Luyện đơn nấu thuốc, chăn chăn từ giờ.([54])
Một năm đầu trúc cơ ([55]) luyện mạng
Chế phàm tâm lắng gạn trược thanh
Âm dương thăng giáng điều hành
Pháp luân thường chuyển thân hình tươi vui.
Khai sanh môn, phản hồi cựu vị ([56])
Bế tử hộ,([57]) huyết khí thành đơn
Lòng mình trong trắng sạch trơn
Không đau không khổ, toàn chơn nhiệm mầu.
Tu cho được, phải cầu thanh tịnh
Tu cho thành, đừng nịnh đừng ganh
Lòng phàm cương quyết đấu tranh
Cho hơn ma dục, khép mình khuôn viên.
Phước Huệ Đàn chỉ truyền pháp đạo
Cũng là nơi đào tạo giáo đồ ([58])
Chọn người tâm đức truyền trao
Thiên cơ mật yếu ai nào quyết tâm.
Tu xá ([59]) lập chớ lầm phạm lỗi
Phân định rành lề lối học tu
Tứ thời hành lễ công phu
Luyện văn chế võ ([60]) lẽ nào cho thông.
Lấy tài lực ([61]) lập công chứng phước
Lấy đức tin đoạn khước ([62]) trần duyên ([63])
Công phu, công quả ([64]) vẹn tuyền
Thì là nên Thánh nên Hiền khó chi.
Giờ đây Bần Đạo khuyên chư nữ đồ phải dọn mình ([65]) từ đây thọ pháp tu công. Muốn thành đạo phải đi trên đường tu phước tu huệ. Đường ấy có Thầy đã vạch, là để cho toàn đạo theo đó mà đi. Nếu không do bởi Thầy thì không có con đường nào khác để được cứu. Vậy nơi nầy cần hơn là luyện cho được con người đạo hạnh, con người phước đức bằng lòng thương lẽ thật. Nếu mất lẽ thật ở nơi lòng thì đâu dễ tìm nơi nào thấy được sự thật. Bởi vậy, nữ đồ nào dối trá với Bần Đạo, hay dối trá với lòng mình, thì quyết là không được độ.
Mỗi một việc làm dù nhỏ dù lớn, không dễ gì che khuất ai được. Dù là kín nhiệm thì việc ấy ở nơi Thầy, còn không kín nhiệm là việc ở nơi người, đi đường nào tránh được. Vì vậy mà nên cởi mở lo tu hành ([66]) để cứu lấy thân phận mình mà còn giúp được Đạo để lập thêm công cán.([67])
(. . .)
Bần Đạo ban ơn chư nữ đồ. Thăng.


([1]) vầy (getting together): Sum họp, vui vẻ tụ họp tại một chỗ.
([2]) liệt đẳng 列等 (every rank): Các cấp, các bậc, các thứ hạng.
([3]) đẳng đẳng 等等 (everyone): Hết thảy mọi người.
([4]) bí pháp 秘法 (secret method of inner self-cultivation): Phương pháp tu luyện chỉ truyền riêng cho người được tuyển chọn, không truyền dạy rộng rãi.
([5]) tam hoa 三花, 三華: Là ngọc hoa (tinh), kim hoa (khí), cửu hoa (thần). Có câu: Tinh viết ngọc hoa, khí viết kim hoa, thần viết cửu hoa. 精曰玉華氣曰金華神曰九華. (Tinh gọi là ngọc hoa, khí gọi là kim hoa, thần gọi là cửu hoa.) chứng tam hoa: Tu luyện cho thần huờn hư, tinh khí thần tụ hết về thượng đan điền, nên có thành ngữ tam hoa tụ đảnh 三花()聚頂.
([6]) Có câu: Phàm tâm tử, đạo tâm sanh. 凡心死, 道心生. (Lòng phàm tục không còn, tâm thánh thiện nảy sanh.)
([7]) Già: Đức Ngô.
([8]) lòng vòng (indecisive): Dây dưa, không dứt khoát.
([9]) diệt (eliminating): Dứt sạch, trừ cho hết.
([10]) nhứt thiết 一切 (all, every): Tất cả.
([11]) phăng (phăn): Lần mò, vịn vào cái gì mà từ từ bước tới. Thường nói phăng lần, lần phăng.
([12]) thiên ngoại 天外 (beyond the secular world): Ngoài trời, ngoài cõi tục phàm. (Nói tắt thành ngữ thiên biên chi ngoại 邊之外.)
([13]) chàng ràng (lingering): Quẩn quanh bên cạnh, không rời xa.
([14]) trần căn 塵根: Lục trần 六塵 (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp: sight, sound, smell, taste, touch, idea) khi tương tiếp 相接 với lục căn 六根 (the six senses: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ) làm cho tâm mất thanh tịnh, gây phiền não.
([15]) lương năng 良能 (good innate ability): Khả năng bẩm sinh tốt lành Trời ban sẵn cho người.
([16]) đen đỏ: Ý nói thay lòng đổi dạ, phản sư bội đạo.
([17]) trung trinh 忠貞 (loyal and dependable): Trung thành, đáng tin cậy.
([18]) kiếp sinh (life): Kiếp sống.
([19]) đinh ninh (kiên định 堅定: steadfast): Trước sau như một, không thay lòng đổi dạ.
([20]) hồng thệ 洪誓 (solemn pledge): Lời thề rất hệ trọng.
([21]) Ngọc bệ 玉陛 (jade step where the God’s throne is placed; fig. God): Thềm ngọc, nơi đặt ngai Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế; ám chỉ Đức Chí Tôn (do đó viết hoa).
([22]) đơn thơ, đan thư 丹書 (red letter): Chiếu thư 詔書 của Đức Ngọc Hoàng viết bằng mực son (chu : vermilion) truyền ban cho người tu đắc đạo. Do đó có thành ngữ đơn thơ chiếu triệu 丹書詔召 (Đơn thơ của Đức Ngọc Đế gọi người tu đắc đạo về chầu Thầy). Khi tiền bối Trần Nghĩa Trọng đắc đạo quả Đại Giác Chơn Tiên, tại đàn Chợ Lớn (Chiếu Minh), ngày 23-7 Tân Tỵ (Chủ Nhật 14-9-1941), Đức Cao Đài Giáo Chủ dạy: “Vậy như Trọng đây trước cũng một nguyên nhân của Thầy sai giáng phàm; ngày nay công đầy quả đủ, Thầy hạ chiếu triu đơn thơ thâu về nguyên vị.” Sau đó, Đức Đại Giác Chơn Tiên tường thuật: Ngày thọ lãnh đơn thơ chiếu triu / Khiến tâm thn yu yu minh minh / Nê Hoàn Thầy m khiếu linh / Dứt ri cuc thế Ngc Kinh tr v.
([23]) ngoài trời: (thiên ngoại 天外: beyond the secular world; nói đủ là thiên biên chi ngoại 邊之外): Ngoài cõi tục phàm.
([24]) kim đơn (đan) 金丹 (immortal remedy; fig. inner self-cultivation method): Thuốc tiên giúp trường sanh bất tử; ám chỉ phương pháp tu luyện thoát luân hồi sanh tử.
([25]) hằng (constantly): Thường hay.
([26]) bận (being involved in): Vướng bận, mắc míu.
([27]) đòi đoạn (many times): Đòi cơn, đòi phen, lắm lần, nhiều lúc.
([28]) dinh (doanh) (full): Đầy. (not full): Vơi. tiêu (vanishing, disappearing): Tan biến. trưởng (growing, developing): Tăng thêm, lớn lên.
([29]) tang thương (vicissitudes): Nói tắt thành ngữ tang điền [biến vi] thương hải 桑田[變為]蒼海 (ruộng dâu biến thành biển xanh), chỉ những sự thay đổi lớn lao ở đời.
([30]) hồi đầu 回頭 (turning one’s head back; fig. awaking to illusions of life): Quay đầu lại; tỉnh ngộ, thức tỉnh.
([31]) ảo hóa, huyễn hóa 幻化 (illusions): Những thứ không thật, luôn biến đổi.
([32]) mạt kiếp 末劫 (the last kalpa): Cũng gọi là hạ nguơn (nguơn điêu tàn, nguơn tái tạo). Thời kỳ cuối cùng của một đại chu kỳ vũ trụ sau khi đã qua hết thượng nguơn (nguơn thượng đức, nguơn tạo hóa: the first kalpa) và trung nguơn (nguơn thượng lực, nguơn tranh đấu: the second kalpa).
([33]) tràng, trường (field, area): Nơi chốn.
([34]) men (gradually stepping forward): Lần lần bước tới.
([35]) biển trần (trần hải 塵海: the worldly sea of suffering): Biển khổ trần gian. tỏ bến thấy bờ (clearly seeing the shore): Thấy rõ bến bờ.
([36]) triệu hồi 召回 (recalling sb, summoning sb back): Gọi về.
([37]) trù trì (trù trừ 躊躇: hesitating): Chần chừ, do dự.
([38]) Thiên oai (Thiên uy 天威: the Heaven’s power): Quyền uy của Trời.
([39]) thông công 通功 (communion; communicating with): Liên lạc, tiếp xúc (các Đấng thiêng liêng). Thông công là thuật ngữ đạo Chúa. Xem: Huệ Khải, Sơ Khảo Thuật Ngữ Đạo Chúa Trong Đạo Cao Đài (Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2019, tr. 75-80).
([40]) lập vị 立位 (establishing one’s position in heaven): Tạo lập ngôi vị thiêng liêng trên cõi trời.
([41]) ân cần 殷勤 (solicitous and attentive): Quan tâm, để tâm lo liệu.
([42]) Thánh Linh 聖靈 (the Holy Spirit): Thiên điển của Đức Chí Tôn.
([43]) ân tứ 恩賜 (God’s favour, Heaven’s grace): Ơn Trời ban cho.
([44]) đồng thanh đồng khí 同聲同氣 (the same sound and the same nature): Kinh Dịch, quẻ Càn, có câu: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu. 同聲相應, 同氣相求. Cùng tiếng thì ứng với nhau, cùng khí chất thì tìm đến nhau. (Sounds of the same tone respond to one another; creatures of the same nature seek one another.) Chẳng hạn, bạn đạo cùng lý tưởng tìm đến nhau, cùng tu chung một thầy, hành một pháp môn.
([45]) đồng chí 同志 (of the same aspiration or will): Cùng chí hướng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp chung. đồng tình 同情 (the same mind): Cùng một lòng.
([46]) vui vầy (being joyful together): Cùng vui, chung vui với nhau.
([47]) Nhân danh Thầy mới khỏi kiêu căng: Người môn đệ làm được chút công cán gì đều nhờ vào ơn Thầy (Đức Chí Tôn) hộ trì. Nếu ngộ nhận đó là do bản thân tài giỏi thì sẽ kiêu ngạo, cậy công, và mất ơn Thầy. Sau khi phục sinh, Đức Giê-su sai các tông đồ đi truyền giáo, và dạy: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ; làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần . . .” (Mát-thêu 28:19)
([48]) Xa Tăng (Tát Đán 撒旦: Satan): Chúa quỷ, quỷ vương.
([49]) Thiên sứ 使 (Heaven’s missionary): Sứ giả truyền đạt mệnh Trời.
([50]) nhứt lộ đồng đăng 一路同登 (journeying together on one route): Cùng đi chung một con đường; cùng tu theo một đường lối giải thoát; cùng theo một tôn giáo.
([51]) vĩnh sanh 永生 (eternal life): Sự sống đời đời.
([52]) thông thiên đạt địa 通天達地 (penetrating heaven and earth, understanding all in the universe): Thấu suốt mọi điều trong trời đất.
([53]) hàm tàng 含藏 (including, containing): Bao gồm, chứa đựng.
([54]) chăn chăn từ giờ: Chăn giữ cái tâm từng giờ từng phút.
([55]) trúc cơ 築基 (constructing the foundation): Xây nền đắp móng, xây dựng nền tảng. Tiên Học Từ Điển仙學辭典 của Đới Nguyên Trường 戴源長 giảng rằng tích lũy tinh khí là trúc cơ.
([56]) cựu vị 舊位 (former position in heaven): Ngôi vị cũ ở trên trời, trước khi xuống trần làm người.
([57]) khai sanh môn bế tử hộ 開生門閉死戶 (opening the gateway of life and closing the doorstep of death): Mở cửa sống và đóng cửa chết. Môn cửa hai cánh; hộ cửa một cánh; môn hộ ám chỉ nơi ra vào. Tiên Học Từ Điển của Đái Nguyên Trường giảng sanh môn là lỗ rún; và giảng tử hộ là Dương Quan 陽關 (tức cửa ải của khí dương, ranh giới của âm dương), tinh (sperm) còn trong ải là dương tinh, lọt ra ngoài ải biến thành âm tinh, trược tinh. Tạm hiểu khai sinh môn bế tử hộ ám chỉ bí quyết pháp môn tu luyện (inner self-cultivation) để giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử (free from samsara).
([58]) giáo đồ (adherents, disciples, followers): Tín đồ 信徒 (môn đồ 門徒) của một tôn giáo.
([59]) tu xá 修舍: Nhà tu cho nam (monastery) hay nữ (convent).
([60]) luyện văn chế võ: Tu luyện có dùng lửa văn (văn hỏa 文火) và lửa võ (vũ hỏa 武火). Tu Đạo Toàn Chỉ giảng văn hỏa là khí hô hấp, nhỏ nhẹ đạo dẫn, tắm gội ôn dưỡng; vũ hỏa là khí hít thở thổi mạnh đi khắp nơi, dùng vào việc nấu luyện. Tiên Học Từ Điển của Đái Nguyên Trường giảng rằng một trăm ngày tiểu chu thiên lúc luyện tinh nên dùng vũ hỏa; mười tháng đại chu thiên lúc luyện khí nên dùng văn hỏa.
([61]) tài lực 財力 (financial resources, financial ability): Khả năng tài chánh.
([62]) đoạn khước 斷卻 (cutting off): Cắt đứt.
([63]) trần duyên 塵緣 (marital bonds, matrimonial chains): Mối ràng buộc của cuộc sống hôn nhân. Cung Oán Ngâm Khúc có câu: Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.
([64]) công phu 功夫 (practising inner self-cultivation; practising meditation): Ngồi thiền, tu tịnh, tịnh luyện. công quả 功果 (meritorious deed or service): Việc thiện, phụng sự cho người khác.
([65]) dọn mình (chuẩn bị tự kỷ 準備自己: preparing one’s body and mind): Chuẩn bị thân tâm cho xứng đáng để đón nhận hồng ân và sứ vụ do Ơn Trên giao phó.
([66]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.
([67]) công cán 公幹 (result of hard work): Kết quả của công việc khó nhọc.
Huệ Khải chú thích
Lê Anh Minh hiệu đính
Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2020