Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

11. THÀNH LẬP TU XÁ

11. THÀNH LẬP TU XÁ CHO
NỮ ĐOÀN GIẢI THOÁT
Tu xá Phước Huệ Đàn (Tam Kỳ, Quảng Nam)
ngày 08-02 Kỷ Hợi (Thứ Hai 16-3-1959)
THI
LÝ tình hai mối biện phân rành
THÁI độ người tu phải nhiệt thành
BẠCH bạch minh minh quyền pháp rõ
Giáng thăng đừng để lệch công bình.
Bần Đạo chào chư Thiên phong, chư đạo tâm nam nữ. Chư đệ, chư muội an tọa.
Hôm nay tại Hội Thánh Truyền Giáo được thành lập tu xá([1]) cho Nữ Đoàn Giải Thoát vào tu học, là một ơn phước cho nhơn sanh, mà cũng là hồng ân cho chư hiền trong Kỳ Ba tận độ.([2])
Bần Đạo đến để chứng minh sự hiện diện và lòng nhiệt thành của đoàn viên ([3]) có chí xuất gia tìm về lẽ thật, hầu ngày mai đem sở đắc ([4]) trên đường công phu thọ chứng mà đền đáp lại bao nhiêu sự lo lắng của toàn đạo. Mà ngày mai có thành công cũng do nhiều trợ duyên mới đủ phương tiện vượt qua muôn trùng khó khăn trắc trở.
Chư hiền đạo tâm đã giác ngộ trên đường đạo pháp, bằng sự kết duyên giữa nhau, với sự xây đắp lẫn nhau. Xưa, thời cựu pháp, (. . .) khi Phật ra đời chúng sanh được vui mừng đón tiếp lấy nguồn chơn lý một cách dễ dàng. Giữa Phật pháp cùng chúng sanh chia vui sớt khổ, lân mẫn ([5]) trong việc thi ân bố đức cho đời. Nên Phật pháp trải qua mấy mươi thế kỷ mà còn được bền vững, ánh sáng oai đức của Người ([6]) trở nên mãnh liệt trong lòng nhơn loại.
Phật pháp đã sẵn nền công đức vô ngã vị tha,([7]) chư tăng noi đấy mà vươn lên vững chắc, hằng lo thế pháp ([8]) hóa duyên,([9]) kết mối thiêng liêng giữa người ([10]) và Phật pháp. Chúng sanh thì mê muội, phải làm cho chúng sanh giác ngộ. Không phải một sớm một chiều mà cả một công trình ([11]) hóa độ.([12]) Bữa bữa lui tới dạy khuyên, hoặc bằng lời lẽ, bằng dung nghi,([13]) bằng quyền pháp, hoặc bằng công sức để cảm dụ ([14]) độ người. Làm như vậy cũng chưa dễ thành tựu cho người, mà người phải cúng dường cho Phật, bố thí cho tăng, tin cầu chánh pháp.
Chúng sanh nhờ nhiều lần phát tâm từ thiện, phát lòng kính Phật trọng tăng, tuy một tháng một ngày, bằng [cách]([15]) dâng cơm cúng vải,([16]) xây chùa đúc Phật, đúc chuông, mà duyên ấy khởi, lòng ấy ([17]) sanh, giống bồ đề nứt nở,([18]) nên sự sáng suốt càng được tăng huy.([19])
Cũng như hôm nay nền tân pháp, tuy trong hàng chức sắc không đi khất thực,([20]) hóa trai,([21]) không đến chia vui sớt khổ, nhưng tổ chức đã lan rộng, quyền pháp được rải gieo. Hội Thánh lúc nào cũng nghĩ đến nhơn sanh, nỗi nọ điều kia, đen tối về tinh thần, khổ nhục về xác thịt, mà ra lệnh đồng đạo giúp lẫn nhau. Nhơn sanh đóng góp công quả ([22]) vào sự chi nhu,([23]) vào việc tế tự, vào việc ăn mặc đi lại của hàng Thiên ân chức sắc, chức việc.
Thiên ân chức sắc được gây duyên cùng toàn đạo, kết duyên cùng Hội Thánh và nhơn sanh, nên cái duyên được hòa lẫn tương quan.([24]) Xa cũng có, gần cũng có, vì thế mà thiện duyên đã xây đắp một nền phước đức lâu dài. Người nầy lo cho kẻ kia, kẻ kia lo cho người nọ. Ai cũng có tâm lo. Ai cũng có nghĩ đến con đường cứu cánh ([25]) lẫn nhau.
Thì tổ chức ngày nhập tu xá nầy [cho] chư đoàn viên vào học. Học để mà tu. Tu để tìm lẽ thật. Đem cái lẽ thật mà thay vào cái cảnh giả tạm, ảo hoặc ([26]) thế gian, hưởng lấy đời sống đời đời, tình thương bất diệt.
Lẽ thật không phải ai tìm cũng ra, ai muốn cũng được, mà phải có lòng thanh tịnh giác ngộ, vứt bỏ quyền lợi ái ân kia. Phải ở một người có chí nguyện, người đứng ngoài tham muốn, đứng ngoài vòng nhà cửa, chồng con. Người ấy lòng không bận nghĩ cơm ngon áo lành, con no chồng sướng. Không nhúng tay trong việc thị phi thì người không bận ([27]) nợ đời. Không chứa của riêng, không lo tư thất ([28]) thì người rảnh rang. Lòng không bận rộn thì tình ý mới lắng trong. Chừng đó lương tri phát hiện, lương năng ([29]) đủ đầy, trực giác cảm thấu lẽ nhiệm mầu mà đạt thành lẽ thật là chân lý vậy.
Người ấy là ai? Người giải thoát vậy. Thế thì giúp đỡ cho người giải thoát cũng là một công đức chính đáng. Dù người ấy không trở lại gieo chơn lý cho đời cũng cứu được phần hồn họ trở về tịnh cảnh.
Đã nói sự bố thí [có] công đức lớn. Tiền bạc đem ra bố thí cho muôn người được sống đầy đủ, cũng không bằng cho một người có chí hành đạo. Cho một người có chí hành đạo không bằng cho một người thật tâm giải thoát tìm lẽ thật cho đời.
Vậy ai là kẻ cản trở bước tu là người phạm vào sơ nhất điều ([30]) trong giới cấm, mà kẻ không tự chủ cũng chịu dưới quyền tà quái đời đời.
Hôm nay Bần Đạo đến đây là một quyền pháp để chứng minh tất cả quyền hành nữ phái bởi trong tay Bần Đạo ban ra.
Bần Đạo đã lập thành nhà tu nữ phái thì lẽ tất nhiên hàng Thiên ân trong Hội Thánh đều nhứt nhứt ([31]) tuân hành. Nếu ai trái phạm lời Bần Đạo thì cửa thiên môn bởi tay Bần Đạo đóng chặt.
Về Nữ Đoàn Giải Thoát, phần đã làm lễ xuất gia, hôm nay nghe Bần Đạo hỏi. Chư hiền nữ đã lượng được sức mình chưa? Quyết tâm giải thoát chưa? Có chịu được thiên ma bách chiết ([32]) không? Đói no giữa nhau có khi nào phụ bạc không? Còn lướng vướng mối manh nào chưa dứt được?


([1]) tu xá 修舍: Nhà tu cho nam (monastery) hay nữ (convent).
([2]) tận độ (saving all): Cứu độ hết tất cả.
([3]) đoàn viên 團員 (member): Thành viên Nữ Đoàn Giải Thoát.
([4]) sở đắc 所得 (what one acquires; one’s gains): Những gì mình thâu lượm, gặt hái được.
([5]) lân mẫn 憐愍 (pitying sb, feeling pity for sb): Thương xót, xót xa.
([6]) Người: Đức Phật Thích Ca.
([7]) vị tha (selfless, unselfish): Vì người khác, không ích kỷ.
([8]) thế pháp 世法 (the dharma applied to the world): Cái pháp ứng dụng vào cuộc đời.
([9]) hóa duyên 化緣: Tạo điều kiện dẫn dắt người tu hành.
([10]) người (humans): Con người, chúng sanh, nhân loại.
([11]) công trình 功程 (skill and long-time effort): Sự khéo léo và công sức khó nhọc trong thời gian dài. Cùng nghĩa công phu.
([12]) hóa độ 化度 (converting sb to self-cultivation): Đưa người vào đường tu hành.
([13]) dung nghi 容儀 (countenance and appearance): Vẻ mặt và dáng dấp.
([14]) cảm dụ 感誘: Cảm hóa 感化khuyến dụ 勸誘; làm cho lòng người rung động mà nghe theo lời khuyên sửa xấu nên tốt.
([15]) Chữ trong dấu [. . .] là do chúng tôi thêm vào.
([16]) cúng vải (offering cloth): Cúng dường vải cho tăng ni.
([17]) lòng ấy: Lòng kính Phật, tôn trọng tăng ni.
([18]) nứt nở (sprouting, developing): Nảy nở, phát triển.
([19]) tăng huy 增輝 (increasing splendour): Tăng thêm rực rỡ.
([20]) khất thực 乞食 (begging for food): Xin ăn.
([21]) hóa trai 化齋 (begging for vegetarian food): Xin cơm chay.
([22]) công quả 功果 (donation, money contribution): Tiền bạc đóng góp cho một tổ chức tôn giáo.
([23]) chi nhu 支需 (spending on necessities): Chi tiêu cho những món cần thiết.
([24]) tương quan 相關 (interrelated): Liên quan lẫn nhau.
([25]) cứu cánh 究竟 (saving humans from samsara): Người Hoa dịch ba la mật đa 波羅蜜多 (paramita) sang chữ Hán là đáo bỉ ngạn 到彼岸 (sang bờ bên kia, qua bờ giác), cũng dịch là cứu cánh. Thế nên cứu cánh còn có nghĩa là cứu độ, cứu rỗi, giải thoát luân hồi sanh tử.
([26]) ảo hoặc 幻惑 (unreal and deceiving): Giả dối và gạt lừa.
([27]) bận (being involved in): Vướng bận, mắc míu.
([28]) tư thất 私室 (private house): Nhà riêng.
([29]) lương năng 良能 (good innate ability): Khả năng bẩm sinh tốt lành Trời ban sẵn cho người.
([30]) sơ nhất điều 初一條 (the first clause): Điều thứ nhất.
([31]) nht nht 一一 (completely): Hoàn toàn.
([32]) thiên ma bách chiết 千磨百折 (myriads of torment): Ma là mài cho mòn, chiết là bẻ cho gẫy. Thiênbách là vô vàn, vô số. Thiên ma bách chiết là vô vàn những cực khổ, khốn đốn về thể xác và tinh thần.
Huệ Khải chú thích
Lê Anh Minh hiệu đính
Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2020