Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

9. PHẤN CHÍ KHỞI TÂM

9. PHẤN CHÍ KHỞI TÂM
ĐỂ KHỎI BÁN ĐỒ NHI PHẾ
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
ngày 06-02 Kỷ Hợi (Thứ Bảy 14-3-1959)
Chào chư Thánh ân Thiên mạng.([1]) Chào quý đạo muội.
THI
BẢO toàn ([2]) quyền pháp phải vô tư ([3])
THỌ nhiệm ân oai ([4]) giữ thuận từ ([5])
THÁNH lệnh ban ra đừng sửa đổi
NƯƠNG nhau trở lại cảnh thanh hư.([6])
Giờ này Bản Nương đến báo đàn. Chư Thiên ân và toàn liệt quý nữ thành tâm nghinh giá.([7])
Lòng Bản Nương lúc nào cũng ưu tư ([8]) cho chư hiền muội trên đường hành công lập hạnh. Chư hiền muội còn phải vượt qua nhiều khó khăn. Nếu không phấn chí khởi tâm ([9]) thì đành phải bán đồ nhi phế.([10]) Cơ hội nào mới được hội hiệp cùng Thầy, mới về quê xưa vị cũ? ([11])
Bản Nương rất mừng là năm xuân thánh đức hồng ân cảo chọn,([12]) phân phàm lọc thánh sắp xếp thứ tự Thiên ân, chư muội được tiếp kỳ đại xá,([13]) mở tu viện, lập học đường, đào tạo công năng đáng người đạo hạnh.
Chư vị an tọa.
Tại tu xá Tam Kỳ ([14]) được Đức Ngô Tiên Ông ban giáo đường ([15]) huấn học ([16]) cho chị em, thì từ nay cố gắng một lòng tiến lên, một lòng vì mục đích cao cả, để trọn ân thánh đức. Chư chị em bây giờ cần chọn lọc ba mươi sáu người vào tu xá này tu học. [Sau] ([17]) thời gian hai năm sẽ ra hành đạo. Nếu cơ hội này bỏ qua thì không còn thời buổi nào tổ chức lại được.
(. . .)
Đây Bản Nương nói về chị em xuất gia vào cơ sở Đoàn ([18]) để cùng sống mà tu. Điều ấy là một ý tốt. Bản Nương hằng cầu nguyện. Nhưng sự xuất gia đây chị em còn ham vui chạy theo phong trào, chưa phải nhận chân ([19]) được con đường cứu cánh ([20]) trọn vẹn. Chị em còn nặng tình cảm, nên lòng mình chưa được vô tư. Nếu không cân đi nhắc lại ([21]) thì để tiếng ([22]) cho sau này không ít. Vì vậy mà phải có một hình thức cảo chọn trong thời gian ba năm học và hành đạo.([23])
Đáng ra vào tu thì phải có một hồng thệ,([24]) nhưng vì thấy các hiền chưa thông lẽ đạo, chưa biết được mình, nên để từ từ mở lần căn trí và tự phát tâm.
(. . .)
Thôi, chư hiền nghiêm đàn tái cầu.([25]) Bản Nương chào.


([1]) Thiên mạng 天命 (dignitaries carrying the Heaven’s mission): Chức sắc đang nhận lãnh sứ mạng Trời ban trao.
([2]) bảo toàn 保全 (preserving): Giữ gìn cho trọn vẹn, không để sứt mẻ hay hư hỏng.
([3]) vô tư 無私 (unbiased, impartial): Không có lòng riêng, không thiên vị, không thành kiến.
([4]) thọ nhiệm (nhậm) 授任 (accepting an appointment): Nhận lãnh một chức vụ. ân oai (ân uy 恩威: grace and power; favour and authority): Ơn huệ và quyền uy.
([5]) thuận từ 順慈 (harmony and love): Hòa thuận và yêu thương.
([6]) thanh hư 清虛 (purity and emptiness): Trong sạch và rỗng rang. cảnh thanh hư 清虛 (the scenery of purity and emptiness): Cảnh Tiên (the scenery of Immortals).
([7]) nghinh giá 迎駕 (welcoming the Golden Mother of the Jade Lake): Đón tiếp Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
([8]) ưu tư 憂思 (anxious and worried): Lo nghĩ.
([9]) phấn chí khởi tâm 奮志起心 (ardently doing sth with strong will): Hăng hái trong lòng và mạnh mẽ ý chí.
([10]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này. bán đồ nhi phế 半途而廢 (giving up halfway; leaving sth unfinished): Nửa đường bỏ cuộc; bỏ dở nửa chừng công việc đang làm.
([11]) quê xưa (cố hương 故鄉, cố quận 故郡: former homeland in heaven): Quê cũ trên trời, trước khi xuống trần làm người. vị cũ (cựu vị 舊位: former position in heaven): Ngôi vị cũ ở trên trời, trước khi xuống trần làm người.
([12]) cảo chọn (khảo tuyển 考選: selecting by examining): Xem xét để chọn lựa.
([13]) đại xá 大赦 (amnesty, general pardon): Tha hết cho những người phạm tội.
([14]) tu xá 修舍: Nhà tu cho nam (monastery) hay nữ (convent). tu xá Tam Kỳ: Nhà tu Phước Huệ Đàn của dòng tu Bảo Thọ ở Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam), dành cho nữ tu.
([15]) giáo đường 教堂 (hall for teaching the Dao): Nhà để dạy đạo.
([16]) huấn học 訓學 (training): Huấn luyện 訓練, đào tạo.
([17]) Chữ trong dấu [. . .] là do chúng tôi thêm vào.
([18]) Đoàn: Nói đủ là Nữ Đoàn Giải Thoát.
([19]) nhận chân 認真 (realising the truth): Nhận rõ được sự thật.
([20]) cứu cánh 究竟 (saving humans from samsara): Người Hoa dịch ba la mật đa 波羅蜜多 (paramita) sang chữ Hán là đáo bỉ ngạn 到彼岸 (sang bờ bên kia, qua bờ giác), cũng dịch là cứu cánh. Thế nên cứu cánh còn có nghĩa là cứu độ, cứu rỗi, giải thoát luân hồi sanh tử.
([21]) cân đi nhắc lại (considering sth carefully): Cân nhắc tới lui; cân nhắc đi cân nhắc lại, suy xét rất cẩn thận.
([22]) để tiếng (leaving notoriety behind): Để lại tiếng xấu.
([23]) ba năm học và hành đạo: Gồm hai năm học và thêm một năm hành đạo.
([24]) đáng ra: Lẽ ra.
([25]) Tái cầu Đức Mẹ.
Huệ Khải chú thích
Lê Anh Minh hiệu đính
Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2020