Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

8. CHỈ CÓ PHƯƠNG TU

8. CHỈ CÓ PHƯƠNG TU GIẢI THOÁT
LÀ CON ĐƯỜNG BẤT DIỆT
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
ngày 20-01 Kỷ Hợi (Thứ Sáu 27-02-1959)
THI
PHỤC hưng chánh pháp độ tàn linh ([1])
MA luyện tâm thân tượng thánh hình ([2])
ĐẠI Đạo quy hồi về cựu cảnh ([3])
ĐẾ ân ([4]) nhỏ ([5]) đến mối công bình.([6])
Lão chào chư Thiên ân, chư đạo tâm trong hàng Thính, Hành, Giáo, Phục Thiện.([7])
Giờ nầy Lão đến đây để chứng tấm lòng thành của chư hiền đã thấu hiểu phần nào trên đường hồng ân tận độ ([8]) mà quyết tâm bước lại trên đường quê cũ vị xưa.
Đời là sông mê bể khổ, không lúc nào bằng phẳng lặng êm, ồ ạt xôn xao, ngày tháng liên miên muôn ngàn lượn sóng, đảo lộn chát óc rầy tai, chôn nhận bao linh hồn đã sa nơi vực thẳm. Nếu loài người chẳng giác ngộ hồi đầu ([9]) thì mãi cứ trầm luân ([10]) dưới trăm ngàn lượn sóng.
Hôm nay cơ tận độ đã đến ngay trong buổi đời xáo trộn tang thương. Các đệ là người hữu duyên được đứng trên chiếc thuyền từ đưa qua bờ giác thì hân hạnh lắm rồi. Phải tinh tấn,([11]) dõng mãnh chống tới chèo qua cho mau đến bến.
Cơ cứu chuộc ([12]) đã thiết lập tại đất nước nầy, xây dựng một nền an ninh cho muôn dân hưởng phước thanh bình chung trong thánh thể,([13]) tránh cơ tận diệt.([14])
Nền an ninh quốc đạo là nền Phước Thiện mà sứ mạng đã trao gửi nơi các hiền. Các hiền phải cố gắng làm xong công đức. Sau nầy Thầy sẽ ban thưởng một cách xứng đáng.
Ở đời nầy không có một cái gì là hạnh phúc chơn thật cả. Dù là quốc vương, hào phú ([15]) cũng chưa phải là nhàn. Chỉ có đạo đức ở lòng mình, người ấy mới tự do, vinh hạnh hơn cả. Người được hữu phần gặp mối chơn truyền,([16]) được minh sư chỉ điểm ([17]) thì ân phước vô cùng. Khải thị ([18]) lòng mình, thấu suốt máy hành tàng,([19]) chủ quyền sanh tử,([20]) khai sinh môn bế tử hộ,([21]) thung dung chiều sớm, không một cái gì bó buộc cản ngăn. Xa bả lợi danh ([22]) nên lòng mãi thấy nhẹ nhàng, đôi mắt sáng trưng không bị một gợn bụi trần ngăn lấp. Con đường giải thoát là nguồn chơn thật, hạnh phúc trên cả bất cứ một cái gì mà người đời cho là quý trọng trên hết.
Người có giải thoát được mới tự do, không bận bịu trần duyên,([23]) không nô lệ cho ý tình ái ân danh lợi. Nhưng đã thông cảm, thừa thọ ([24]) pháp môn thì gươm trí huệ thường mài, đoạn dứt trần căn,([25]) oan nghiệt để cho linh hồn tươi tỉnh, siêu lên chín phẩm liên đài.([26]) Phải biết giá trị thiêng liêng, chỉ có phương tu giải thoát là con đường bất diệt.([27]) Vì thế, mà người xưa cầu đạo lấy làm khó khăn. Nếu không bền chí thật tâm, buông bỏ trần tình, xả thân hành đạo([28]) thì làm gì được khẩu quyết ([29]) ban trao.
Các đệ đời sống cũng chẳng hơn ai. Ăn mượn ở thừa, có được bữa mai lo bữa tối. Nói danh gọi lợi cũng ở dưới đứng sau, thì danh lợi gì mà mê say, đem thân lòn cúi? Sao chưa bỏ quách mà đi? Giàu sang như Huỳnh Đế,([30]) danh lợi như Trương Lương ([31]) mà còn buông phế việc đời, cầu truyền ([32]) chánh pháp, an vui ngày tháng với cảnh trí đất trời. Danh sĩ được tuổi tên như Hứa Do,([33]) vua Nghiêu võng giá ([34]) đến cầu vời ([35]) mà còn rửa tai, ngó lơ, không muốn bận lấy ([36]) mùi phiền đỉnh chung thế tục.
Các hiền còn ham gì, muốn gì?
BÀI
Đường giải thoát kêu nhau cùng bước
Mối Đạo lành sau trước chung xây
Làm cho bốn biển vui vầy ([37])
Cho đời an tịnh đó đây một nhà.
Phải giác ngộ, thiết tha tu học
Phải quyết tâm, khó nhọc đừng lui
Nếm cho thấu vị biết mùi
Thì lòng mới khỏi ngược xuôi đoạn đời.
Nay ơn phước Cha Trời nhỏ đến
Đem mối tình thân mến cho nhau
Nhuộm tươi lẽ sống đậm màu
Xây nền thế đạo sang giàu tự do.
Người tự giác phải lo công quả ([38])
Quả công dày, tội quá ([39]) trừ xong
Xong rồi Bồng Đảo ([40]) thong dong
Nương mây cỡi gió, khỏe lòng chi hơn.([41])
(. . .)
Lão chào. Lão thăng.


([1]) tàn linh (leftover spirits): Những linh căn (nguyên nhân 原人) còn sót lại trong số chín mươi hai ức nguyên nhân bị rớt lại (cửu nhị tàn linh 九二殘靈) sau hai kỳ phổ độ. Theo Ngọc Lộ Kim Bàn 玉露金盤 (the Golden Basin of Jade Dew), có chín mươi sáu ức nguyên nhân xuống trần; sau hai kỳ phổ độ (the First and the Second Universal Salvations) chỉ độ được mỗi kỳ hai ức trở về với Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
([2]) tượng (shaping, forming): Tạo nên hình dạng. ma luyện 摩練 (filing and training): Mài giũa và rèn luyện. Ma luyện tâm thân tượng thánh hình: Mài giũa và rèn luyện tâm thân phàm tục để tạo nên thánh hình (thánh thể), tức là tu luyện để thánh hóa bản thân.
([3]) quy hồi 歸回 (returning): Trở về. Đại Đạo quy hồi về cựu cảnh: Noi theo Đại Đạo (tu theo Cao Đài) để trở về cõi trời là chốn xưa của mình.
([4]) Đế ân 帝恩 (God’s grace): Ơn Thượng Đế.
([5]) nhỏ (dripping): Nhỏ giọt, rỏ giọt.
([6]) Bài thơ quán thủ là Phục Ma Đại Đế 伏魔大帝 (the Emperor Defeating Devils), một tôn hiệu của Đức Quan Thánh Đế Quân.
([7]) Thính, Hành, Giáo, Phục Thiện: Nói đủ là Thính Thiện, Hành Thiện, Giáo Thiện, và Phục Thiện. (Dưới Thính Thiện là Dự Thiện.)
([8]) tận độ (saving all): Cứu độ hết tất cả.
([9]) hồi đầu 回頭 (turning one’s head back; fig. awaking to illusions of life): Quay đầu lại; tỉnh ngộ, thức tỉnh.
([10]) trầm luân 沉淪 (sinking): Chìm đắm. Trầmluân đồng nghĩa.
([11]) tinh tấn 精進 (dedicating oneself to progress on the way of self-cultivation): Luôn luôn chuyên tâm nhất trí, cố gắng không ngừng để tiến bộ trên đường tu thân học đạo.
([12]) cứu chuộc (cứu thục : redeeming, redemption): Cứu là cứu nguy, cứu thoát (rescuing, saving). Chuộc (từ thuần Việt, chữ Nho là thục ) nghĩa là đem một món gì ra đánh đổi một hình phạt (lấy công chuộc tội; chữ Nho là tương công thục tội 將功贖罪: redeeming one’s crime[s] by meritorious acts). Trong Nhị Kỳ Phổ Độ, cơ cứu chuộc mở ra khi Đức Giê-su hy sinh trên thập giá, lấy mạng sống của Chúa làm giá chuộc (thục giá 贖價: ransom) cho tội lỗi chúng sinh (xem Mát-thêu 20:28 và Mác-cô 10:45). Trong Tam Kỳ Phổ Độ, cơ cứu chuộc mở ra khi Đức Chí Tôn (Thầy) phế Bạch Ngọc Kinh xuống trần mở đạo Cao Đài với đại nguyện trước Công Đồng Tam Giáo rằng lập Đạo không thành thì Thầy không trở về ngôi vị cũ. Cứu chuộcgiá chuộc là thuật ngữ đạo Chúa.
([13]) thánh thể 聖體 (holy body): Thánh thể của Đức Chí Tôn tại thế gồm Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài. Thánh thể là các thánh thất (hay thánh tịnh), Tòa Thánh, Hội Thánh.
([14]) tận diệt 盡滅 (extermination, complete destruction): Tiêu diệt hết tất cả, hủy diệt hoàn toàn.
([15]) hào phú 豪富 (rich and powerful person): Người giàu có và thế lực.
([16]) chơn truyền 真傳 (handed-down authentic dharma): Chánh pháp do Thượng Đế truyền dạy, chưa bị người phàm canh cải.
([17]) ch đim 指點 (showing how to do sth): Chỉ dạy cách thức.
([18]) khải thị 啟示 (enlightening, illuminating): Soi sáng.
([19]) máy hành tàng (hành tàng chi cơ 行藏之機: the mechanism of revelation and concealment): Máy Trời (Thiên cơ 天機: Heavenly mechanism), ám chỉ sự vận hành của Trời vượt khỏi khả năng hiểu biết của con người; do đó, Thiên cơ còn có nghĩa là sự huyền bí chỉ có Trời biết (mystery known only to Heaven).
([20]) chủ quyền sanh tử (mastering life and death): Làm chủ sự sống và chết.
([21]) khai sinh môn bế tử hộ 開生門閉死戶 (opening the gateway of life and closing the doorstep of death): Mở cửa sống và đóng cửa chết. Môn cửa hai cánh; hộ cửa một cánh; môn hộ ám chỉ nơi ra vào. Tiên Học Từ Điển 仙學辭典 của Đái Nguyên Trường 戴源長 giảng sanh môn là lỗ rún; và giảng tử hộ là Dương Quan 陽關 (tức cửa ải của khí dương, ranh giới của âm dương), tinh (sperm) còn trong ải là dương tinh, lọt ra ngoài ải biến thành âm tinh, trược tinh. Tạm hiểu khai sinh môn bế tử hộ ám chỉ bí quyết pháp môn tu luyện (inner self-cultivation) để giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử (free from samsara).
([22]) bả (poison bait): Mồi độc để nhử. bả lợi danh (danh lợi chi nhĩ 名利之餌: the bait of fame and profit): Danh lợi cám dỗ con người phạm lỗi, trái đạo lý, mất nhân phẩm... nên danh lợi giống như mồi độc giết người.
([23]) trần duyên 塵緣 (marital bonds, matrimonial chains): Mối ràng buộc của cuộc sống hôn nhân. Cung Oán Ngâm Khúc có câu: Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.
([24]) thừa thọ (thụ) 承受 (receiving): Đón nhận, nhận lãnh.
([25]) trần căn 塵根: Lục trần 六塵 (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp: sight, sound, smell, taste, touch, idea) khi tương tiếp 相接 với lục căn 六根 (the six senses: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ) làm cho tâm mất thanh tịnh, gây phiền não.
([26]) chín phẩm liên đài (cửu phẩm liên đài 九品蓮臺: the nine grades of the lotus seat): Người đắc đạo khi về cõi trời tùy theo công đức tu hành mà được hưởng ngôi vị (liên đài) tương xứng. Ngôi vị chia ba hạng (thượng, trung, hạ); hạng thượng lại chia ra thượng thượng, thượng trung, thượng hạ 上上, 上中, 上下 (upper superior, middle superior, lower superior); hạng trung lại chia ra trung thượng, trung trung, trung hạ 中上, 中中, 中下 (upper intermediate, middle intermediate, lower intermediate); hạng hạ lại chia ra hạ thượng, hạ trung, hạ hạ 下上, 下中, 下下 (upper inferior, middle inferior, lower inferior); như vậy tổng cộng là chín phẩm bậc. Ghi chú: Chúng tôi chưa tìm thấy thánh giáo giải thích thuật ngữ chín phẩm liên đài. Trên đây là suy luận phỏng theo cách giải thích cửu phẩm liên đài trong Phật Giáo (Tịnh Độ Tông 淨土宗: the Pure-Land Sect).
([27]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.
([28]) xả thân hành đạo 捨身行道 (giving one’s life for doing the dao): Bỏ mình làm đạo, quên cả bản thân.
([29]) khẩu quyết 口訣 (an oral cue for a secret inner self-cultivation practice): Lời truyền miệng để dạy riêng đệ tử cách tu luyện.
([30]) Hiên Viên Huỳnh Đế 軒轅黄帝: Một vị vua đời thượng cổ ở Trung Hoa. Khi cầu học đạo Tiên với ngài Quảng Thành Tử 廣成子, nhà vua quỳ và lết bằng đầu gối suốt con đường dẫn tới chỗ sư phụ.
([31]) Trương Lương 張良 (Zhang Liang): Tự Tử Phòng 子房 (?-188 trước Công Nguyên) là quý tộc nước Hàn. Sau khi Hàn bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt (230 trước Công Nguyên), Trương Lương mượn tay dũng sĩ ám sát vua Tần. Việc thất bại, Trương trốn sang thành Hạ Bì 下邳 (nay thuộc tỉnh Giang Tô 江蘇). Một hôm ra sông Nghi , ngồi chơi trên cầu Di , Trương gặp ông lão (là ông tiên Hoàng Thạch Công 黄石公: Huang Shigong) đi qua. Ông lão ba lần cố ý làm rớt dép, hách dịch sai Trương xuống dưới cầu nhặt lên, xỏ giúp vào chân. Cả ba lần Trương đều nhẫn nhịn người già cả, làm y theo lời sai khiến. (Trương Lương dâng dép ─ Trương Lương tiến lý 張良進履: Zhang Liang returning a shoe to Huang Shigong.)
Ông lão dặn năm ngày nữa gặp lại sẽ tặng Trương vật báu. Trương y hẹn trở lại thì ông lão đã tới sớm hơn. Ông làm mặt giận, quở trách và hẹn thêm năm ngày nữa. Lần thứ hai dù đã ráng tới thật sớm mà Trương vẫn trễ hơn, ông lão hẹn thêm năm ngày nữa. Lần thứ ba nhờ thức suốt đêm ở chỗ hẹn để khỏi tới trễ nên Trương vượt qua được bài thi (cốt thử thách lòng nhẫn nại, đức khiêm tốn), được tiên ông trao cho Thái Công Binh Pháp 太公兵法 của Khương Tử Nha (Jiang Taigong’s Art of War). Nhờ đó Trương rèn luyện thành tài, làm quân sư trợ giúp Lưu Bang diệt Tần và thắng Sở Bá Vương Hạng Vũ trong chiến tranh Hán Sở. Thù nhà nợ nước trả xong, từ khước chức quan do Lưu Bang phong thưởng, Trương tìm đường tu Tiên, học đạo với ngài Hoàng Thạch Công.
([32]) cầu truyền (requesting for being taught): Cầu xin được truyền dạy.
([33]) Hứa Do 許由 (Xu You): Hứa Do và Sào Phủ 巢父 (Chao Fu) là hai ẩn sĩ danh tiếng thời vua Nghiêu. Vua Nghiêu muốn tìm người hiền để truyền ngôi chứ không truyền cho con. Biết Hứa Do là người hiền, vua ngỏ lời mời ra nối ngôi. Hứa Do từ khước rồi đi vội ra sông rửa tai. Sào Phủ tình cờ dắt trâu đến thấy lạ, hỏi lý do. Hứa Do kể lại chuyện và nói rằng trót nghe lời danh lợi bẩn tai nên phải đi rửa cho sạch. Sào Phủ bèn dắt trâu ngược lên phía trên dòng nước. Hứa Do hỏi tại sao. Sào Phủ đáp rằng để cho trâu khỏi uống nước dơ rửa tai.
([34]) võng giá: Võng và giá mắc võng. Trong thánh giáo này nghĩa là vua nằm võng cho lính rước đi (travelling by hammock).
([35]) cầu vời (thỉnh cầu 請求: requesting): Thỉnh cầu, mời thỉnh.
([36]) bận lấy (getting involved in): Vướng bận vào.
([37]) vui vầy (being joyful together): Cùng vui, chung vui với nhau.
([38]) công quả 功果 (meritorious deed or service): Việc thiện, phụng sự cho người khác.
([39]) tội quá 罪過 (sins): Tội lỗi.
([40]) Bồng Đảo 蓬島: Cũng là Bồng Lai 蓬萊 , một hòn đảo có tiên ở; nghĩa bóng là cảnh tiên, cõi tiên (the abode of immortals).
([41]) chi hơn (nothing better): Chẳng có chi hơn được.
Huệ Khải chú thích
Lê Anh Minh hiệu đính
Hà Nội: Nxb Hồng Đức 2020