Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2021

8. ĐỜI CHƯA YÊN, ĐẠO ĐÂU THÀNH ĐƯỢC / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 

8. ĐỜI CHƯA YÊN,

ĐẠO ĐÂU THÀNH ĐƯỢC

Thánh tịnh Ngọc Minh Đài (Sài Gòn)

ngày 04-3 Quý Mão (Thứ Năm 28-3-1963)

THI

THÀNH thị, thôn quê đượm vẻ buồn

HOÀNG đồ ([1]) chinh chiến diễn bày luôn

BỔN nguyên ([2]) cũng bởi vì tham vọng

CẢNH vật vơi đầy,([3]) lệ nhỏ tuôn.

Bổn Thần chào chư Thiên mạng.([4]) Khá thành tâm ([5]) nghinh tiếp Lý Giáo Tông. Bổn Thần xin kiếu.([6])

TIẾP ĐIỂN

THI

LÝ đào mấy độ rẽ đông tây ([7])

THÁI quá nên ra đến nỗi nầy ([8])

BẠCH Ngọc đòi phen tâu Thượng Phụ ([9])

Giáng trần sửa trị lại trần ai.

Chư hiền đệ! Bạch Ngọc Kinh tiếp sớ các hiền đệ. Bần Đạo thừa lệnh Chí Tôn đến trước để giãi bày ([10]) đôi thắc mắc về cơ đạo Trung Hưng.([11]) Vậy Bần Đạo miễn lễ. Chư hiền an tọa.

Chư hiền đệ ôi, Ta rất buồn! Chẳng lẽ ngồi xem cơ đạo mãi trong thăng trầm, tan tác thì sứ mạng độ tận toàn linh ([12]) ngày nào mới thành tựu.

Thảm thay! Từ khai Đạo đến nay, mỗi lần chánh giáo xương minh,([13]) mỗi lần thành lập một Hội Thánh là mỗi lần ma quỷ thừa dịp hoành hành,([14]) xui nên nghịch lẫn nhau, chia rẽ nhau, để làm cho cơ đạo thất điên bát đảo.([15])

Thử kiểm điểm lại, từ ngày ở chùa Gò Kén đến lập Hội Thánh Tây Ninh, các hướng đạo ([16]) tách nhau ra đi. Đến lập Hội Thánh Minh Chơn Lý (Mỹ Tho) lại gặp cái loạn Thiên Sư Phùng canh cải luật pháp, bỏ Thánh Nhãn, thờ trái tim.([17]) Rồi đến các chi phái Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo, Minh Chơn Đạo, v.v... cho đến phái ẩn tu Chiếu Minh đều phải trải qua bao cơn khảo đảo, hoặc bằng cách nầy hoặc bằng cách khác, mà kết cuộc chỉ đưa cơ đạo đến một tình trạng suy đồi,([18]) một mối chia rẽ trầm trọng.

Ngày nay cơ đạo Trung Hưng lại cũng bắt đầu bước vào con đường ấy. Tại miền Nam lại còn bày thêm lắm trò quái dị, bất chấp luật pháp, bất chấp kinh điển, mạnh ai nấy sửa đổi,([19]) mạnh ai nấy vẽ vời.([20]) Chức sắc Thiên phong rẻ hơn hàng ế chợ. Càng làm càng nói càng xa đạo pháp chơn truyền. Thật là đại loạn!

THI

Đời loạn toan đem đạo cứu đời

Ngờ đâu đạo cũng thế thì thôi

Nên hư bởi tại con người cả

Nhưng chẳng sao qua được lẽ Trời.

Chư hiền đệ ôi! Nội tình ([21]) cơ đạo hiện nay chính Đức Chí Tôn đã căn dặn từ lúc mới khai Đạo. Thầy đã nói quỷ vương cũng dám lợi dụng danh Thầy, mượn danh Phật Tiên, Thánh Thần để dìu dắt nhơn sanh lạc theo tà đạo.([22]) Vì vậy, cơ bút là một vấn đề tối ư hệ trọng và sứ mạng người hướng đạo càng hệ trọng không kém. Phải sáng suốt. Phải có một bản lãnh siêu phàm, một đức độ quảng đại, một tinh thần dõng mãnh hy sinh. Phải hiểu thông lẽ đạo tình đời mới mong làm tròn nghĩa vụ Thiên nhơn hiệp nhứt, giúp Trời mở Đạo, thay Trời dìu dắt nhơn sanh.

THI

Hướng đạo đâu nào, hướng đạo đâu?

Phải thông lẽ nhiệm, thấu cơ mầu

Phải mau quét sạch bao tà vọng ([23])

Để kịp công truyền ngũ đại châu.([24])

Chư hiền đệ! Để cứu vãn một phần tệ đoan ([25]) của cơ chia rẽ, năm Giáp Tuất (1934) thánh ý truyền đạo Trung Châu,([26]) mượn miếng đất Phật, Lão, Khổng thạnh hành để trung hưng chánh pháp,([27]) vừa để chuẩn bị truyền bá Đạo Trời lần lên phương bắc, nên cơ đạo Trung Hưng mở ra một đường lối rộng rãi, quy tụ một số thành phần Tiên Thiên,([28]) Liên Hòa,([29]) Hậu Giang,([30]) và Minh Sư,([31]) v.v… nêu cao tinh thần dung hòa chi phái, ý chí thống nhất Giáo Hội, kêu gọi chấm dứt mọi canh cải, trở về với chơn truyền đạo pháp lúc ban sơ.([32]) Chỉ có một con đường độc đạo ([33]) ấy, các chi phái dừng chân đứng lại mới mong có ngày gặp gỡ nhau trong đại gia đình Đại Đạo. Ngoài ra, mọi thay đổi, mọi sáng tác địa phương bởi tư ý vọng niệm chưa hẳn có giá trị trước Đại Hội Vạn Linh trước Giáo Hội Công Đồng ([34]) duy nhất tương lai.

Đuổi theo mục tiêu ấy, các hướng đạo Trung Việt đã trọn đời hy sinh. Mấy ngàn tín đồ Trung Việt đã tử đạo ([35]) để viết nên trang sử Đạo hùng hồn đầy cảm khái.([36])

Ngày nay Trung Hưng Bửu Tòa đã vươn mình đứng lên giữa trung tâm nước Việt một ngôi thánh đường có một ý nghĩa đặc biệt. Thánh ý định xây dựng từ năm Mậu Dần (1938). Nhưng vì nhân sự phải trễ nải đúng mười tám năm, đến năm Bính Thân (1956) mới thành tựu, và Hội Thánh Truyền Giáo cùng hình hiện ra để đảm đương sứ mạng trọng đại của cơ đạo Bắc Trung.

Cho hay, nơi nào sứ mệnh càng trọng đại thì khảo đảo càng nặng nề. Thánh đức chuyển về hướng nào thì quỷ ma cũng hướng về hướng ấy mà quấy phá. Bởi vậy, xe đạo ([37]) Trung Hưng hiện đương gặp phải một khúc đường quanh co, gồ ghề đầy cát bụi. Thật là đáng buồn mà cũng là lẽ đương nhiên.

Chư hiền đệ! Hội Thánh đã thành lập. Luật pháp đã minh định. Kinh, luật pháp do Chí Tôn và chư Phật, Tiên, Thánh lập ra là Thiên; đem áp dụng cho đúng chỗ đúng lúc để dìu dắt nhơn sanh là nhơn. Thiên nhơn hiệp nhứt là vậy. Chư hiền đệ cứ thế thi hành, không điều gì do dự. Việc chia rẽ nội bộ sẽ cầu xin Thầy định liệu.

Điều khẩn thiết ([38]) hiện thời, từ nay đến rằm tháng Bảy là thời gian chỉnh đốn quyền pháp: Kiểm điểm lại hàng ngũ chức sắc Thiên ân; kiểm điểm lại các tổ chức, các ngành từ Hội Thánh đến xã đạo; đôn đốc các chức sắc, chức việc dõng mãnh, tinh tấn thực hành pháp luyện châu để thân tâm thanh tịnh; các đạo hữu gìn giữ trai giới những ngày rằm, ngày mồng một; đặt ra những ngày cầu nguyện cho cơ đạo vượt qua mọi khảo đảo; kêu gọi thêm một số chức việc phát nguyện hành đạo mỗi đợt ba năm để kiện toàn các cơ quan còn non yếu; chỉnh đốn các tu xá ([39]) đã có; lập lại nội quy chung cho các tu xá; minh định cho rõ ràng về nhà tu và sinh hoạt nhà tu. Lo xong các việc đến tháng Bảy sẽ chỉ thêm.

Hôm nay Bần Đạo khuyên chung chư hiền đệ, kẻ ở Hội Thánh cũng như người ra đi: Các hiền đệ là những người hy sinh đời mình phụng sự cho đại nghĩa, vượt qua bao nghịch cảnh. Các hiền đệ đã thắng được ngoại ma,([41]) ngày nay không lý nào các hiền đệ lại để cho nội ma chinh phục. Các hiền đệ hãy nhìn, tưởng nghĩ lại tiền đồ ([42]) nền Đại Đạo, sự nghiệp cứu độ toàn linh của Thầy hầu dẹp bỏ cái ta đi. Đừng quan trọng cái ta nữa. Phải nghĩ rằng có ta hay không ta, lẽ đời cùng thông bĩ thái ([43]) vẫn cứ diễn hành, cây trên rừng cứ mọc, cỏ ngoài nội cứ xanh, nước trường giang cứ chảy. Hãy diệt bỏ cái ta đi.

THI

Nên cũng ta, mà hỏng cũng ta

Chính ta là Phật, cũng là ma

Thử đem vứt cái ta đi quách

Thế sự lo chi chẳng thuận hòa.([44])

Chư hiền đệ có mặt hôm nay (Quế, Tín, Phẩm, Trường, Lý), Hiệp Thiên Đài (Thanh Long, Bạch Hổ, Luyện, Thạnh)! Các hiền đệ thấy trọng trách của mình chưa? Hãy nhẫn nại và cương quyết trước bao thử thách. Hãy cố gắng hơn nữa, rèn luyện thân tâm để làm gương cho hàng chức sắc. Có Bần Đạo âm phò mặc trợ.

Trường! Hãy còn khảo đảo. Hãy dõng mãnh hơn. Hãy nhẫn nhục điều hòa cùng anh em xây dựng nội bộ đạo Phú Yên cho được nhứt trí.

(. . .)

Chư hiền thành tâm tiếp giá Đức Từ Phụ. Bần Đạo lui.

TIẾP ĐIỂN

THI

NGỌC bệ ([45]) đòi phen nhỏ lệ sầu

HOÀNG Cung Thầy ngự suốt canh thâu

THƯỢNG lưu trách trẻ chưa hòa hiệp ([46])

ĐẾ Đạo ([47]) làm sao khắp ngũ châu?

THẦY CÁC CON ([48])

Thầy miễn lễ các con.

Các con ôi! Thầy rất đau đớn mỗi lần trong hàng các con nghịch lẫn nhau, chia rẽ nhau. Thầy trách các con tuổi đạo đã cao, kinh nghiệm đã dày, kiến thức đã rộng, sao các con không nhìn thấy cơ đời đương tao loạn,([49]) bước đạo đương gồ ghề? Quanh các con và cả trong nội bộ các con đang đứng trước một cảnh trạng ([50]) bạn ít nghịch nhiều.

Lẽ đáng ([51]) các con phải sớm biết quây quần nhau lại để chăn giữ đàn chiên ([52]) cho Thầy, và để xương minh ([53]) chánh pháp mới phải. Trái lại, các con vì chút vọng tâm,([54]) tự ái, thiên kiến ([55]) cá nhân, gây nên nội bộ bất hòa, lần đến chia rẽ làm cho bổn đạo hoang mang, cơ đạo đình trệ,([56]) thì dù các con có thành tâm thiện ý vì Đạo vì Thầy đi nữa cũng vấp phạm phải điều mà Thầy hằng không muốn.

Hôm nay, một lần nữa, lẽ đáng Thầy nói cho các con rõ khoa tu tâm pháp bí truyền với con đường tu tánh luyện mạng,([57]) tu đơn ([58]) là thế nào, nhưng Thầy cần nói với các con về tân pháp ([59]) hơn.

Ngày nay, buổi hạ nguơn mạt kiếp, cơ tiêu diệt hầu kề,([60]) cộng nghiệp ([61]) của chúng sanh cũng đến ngày tổng kết. Năm châu thế giới nào chiến tranh khói lửa, nào ân ái oán thù, diễn bao thảm trạng chém giết sát hại lẫn nhau, kết thành một luồng tư tưởng ác tập ([62]) khắp ba cõi (dục giới, sắc giới, và không giới). Khắp cõi ta bà ([63]) cũng đầy nghẹt các đẳng linh hồn, cũng đương tranh nhau lập công để chờ ngày phán đoán.([64])

Vì vậy pháp tịnh tu bí truyền không mấy ai đạt được, nên Thầy quyết mở rộng Thiên môn,([65]) vận chuyển chư Phật Tiên, Thánh Thần và chính mình Thầy đến tận thế gian mở cơ đại xá, ban hành tân pháp, mở rộng đường tu, kịp thời độ tận toàn linh, lấy đức tin làm mối thông công,([66]) lấy công quả hạnh đức làm nấc thang tiến bước. Trong hàng tín giáo ([67]) giữ được hai điều đó là gần Thầy. Vậy các con thấu chăng?

Mấy ngàn môn đồ tử đạo ([68]) tại Quảng Ngãi, đa số chỉ mới giữ được lòng tin thờ chánh pháp, thế mà Thầy cũng tùy theo phẩm hạnh cho siêu rỗi cả.

Tuy nhiên, để cơ tận độ được vẹn toàn, công cuộc giải phóng con người thêm thiện mỹ, tân pháp có ghi nhận khoản tịnh đường, mật thất ([69]) dành để sau nầy cho những con công đức viên toàn có duyên phần vào cửa ấy, và để giải quyết đời sống cho người lúc già có nơi an nghỉ.

Dẫu vậy, bất luận một pháp môn nào Thầy trao đến cho các con cũng phải đúng lúc đúng thời, hợp tình hợp cảnh, và các con phải đủ người đủ đức. Nếu không hiểu thấu điều ấy, các con tự ý vọng động vọng hành ([70]) là cơ hội cho quỷ ma xen vào gây nên khảo đảo. Tình trạng cơ đạo Trung Hưng ngày nay là thế.

Thầy không muốn nói thêm nữa. Thầy muốn tất cả các con là con cái yêu thương của Thầy, không yêu thương nhau được thì cũng chẳng nên thù nghịch lẫn nhau.([71])

Hỡi các con hướng đạo! Dù sao Thầy cũng khuyên các con nên tự trách mình chưa đủ đức để cảm người,([72]) chưa đủ tài để phục người,([73]) chưa đủ uy để chấp hành ([74]) pháp đạo ([75]) trước mọi nghịch cảnh. Các con nên lấy đức từ bi, hỷ xả, nhẫn nhục mà tiến thủ.([76]) Nếu không hơn được thì các con cũng cố gắng bảo tồn lấy đường lối trung hưng mấy mươi năm qua Thầy hằng dạy bảo. Còn mọi sự chi chi Thầy sẽ sắp đặt.

Các con ôi! Đời chưa yên, đạo đâu thành được.([77]) Các con cố gắng năm nầy và sắp tới hãy hoàn thành các cơ sở Phước Thiện, Phổ Tế. Ngày nào Hội Thánh đủ sức bảo trợ các chức sắc phế đời hành đạo và thiệt hành ([78]) cơ giáo hóa phổ cập([79]) đến các tầng lớp nhơn sanh, ngày ấy Thầy sẽ dạy các con thêm những điều cần thiết cho hoàn thành sứ mạng trung hưng.

THI

Cố gắng lên con, cố gắng lên!

Lời Thầy căn dặn nhớ đừng quên

Năm năm khảo thí không lay chuyển

Sự nghiệp trung hưng mới vững bền.

BÀI

Bền dạ sắt biết bao thử thách

Vững lòng son tìm cách dung hòa ([80])

Nỡ nào nấu thịt nồi da ([81])

Không thương thì chớ dễ mà ghét nhau.

Thầy vì con dãi dầu bao quản

Con vì đời dày dạn phong sương

Trung Hưng cờ đạo phất trương

Ba mươi năm quyết một đường không lui.

Con đã từng nếm mùi cay đắng

Con chẳng nài ([82]) gánh nặng đường xa

Dãi dầu bách chiết thiên ma ([83])

Trơ gan tuế nguyệt,([84]) phong ba ([85]) chẳng sờn.

Thầy thương con lắm cơn gian khổ

Có hy sinh mới có ngày nay

Trách ai sớm khéo vẽ bày ([86])

Làm cho cơ đạo đông tây rẽ đường.

Hỡi các con! Tình thương trên hết

Hỡi các con! Đoàn kết là cần

Dù cho ai Thánh ai Thần

Mà cơ chia rẽ cũng gần quỷ ma.

Thầy cũng muốn nói qua sự thế

Để cho con biết lẽ nhiệm mầu

Nhưng đời còn lắm khổ đau

Thì con còn lắm ưu sầu chưa yên.

Thấy các con khắp miền Trung Việt

Chịu tai ương đã biết bao lần

Ở trần ([87]) đành với phong trần ([88])

Vào tu cũng chẳng an phần mà tu.

Con gắng lên! Công phu, đạo hạnh

Cơ phân phàm lọc Thánh là đây

Đường tu vững bước hội ([89]) nầy

Ngày sau con sẽ gặp Thầy Ngọc Kinh.

Các chức sắc dọn mình trong sạch

Để Thầy trao trọng trách sau nầy

Trung Hưng cơ đạo đắp xây

Trong hòa chi phái, ngoài gây cảm tình.

Mở rộng đường quang minh chánh đại

Dọn sẵn đường chi phái quy nguyên

Chờ cho sóng lặng gió yên

Bí truyền Thầy sẽ tận truyền cho con.

Tiếp sớ các con, Thầy dạy chung. Khá hiểu! Và Thầy cũng nhắc lại các con: Sự thành lập Trung Hưng Thánh TòaHội Thánh Trung Hưng, thánh ý định từ trước. Nhưng đến năm Bính Thân mới hoàn thành và Thầy chỉ dùng tên Trung Hưng Bửu TòaHội Thánh Truyền Giáo để đảm đương cơ đạo Trung Hưng. Các con thấy đức khiêm tốn và tinh thần dung hòa chi phái là cần đến mực nào.

Quế, Thanh Long! Hai con có trọng trách với cơ đạo Trung Hưng, lẽ đáng phải thường trực tại Hội Thánh để điều hành công việc mới phải, nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt già yếu ốm đau, Thầy cũng châm chước. Nhưng hai con lo sớm tạo được văn phòng để có nơi chiêm ngưỡng cho họ đạo Nam Phần và có nơi lúc cần Thầy đến dạy.

Các con Tín, Phẩm, Trường, Lý! Các con ngày nay mới thấy cực khổ hơn và trách nhiệm nhiều hơn. Phải gắng lấy. Phải nhẫn nại, mềm dẻo, ôn hòa để đưa cơ đạo qua cơn khảo đảo.

Luyện, Bạch Hổ từ đây phải lo giúp đạo nhiều hơn để giúp Thạnh xây dựng Hiệp Thiên Đài. Còn về tâm nguyện các con xin phò loan và các việc, để đến tháng Bảy Lý Giáo Tông trình tấu, Thầy sẽ dạy thêm.

Thôi, Thầy ban ơn các con. Thầy thăng.



([1]) hoàng đồ 皇圖 (map of a kingdom, fig., kingdom, country): Bản đồ một vương triều (vương triều đích bản đồ 王朝的版圖); nghĩa bóng là vương quốc 王國, sơn hà xã tắc 山河社稷, đất nước.

([2]) bổn nguyên, bản nguyên 本源 (origin, source, starting point): Nguồn gốc, khởi điểm, nguyên do phát sinh.

([3]) vơi đầy, đầy vơi (full and not full; fig., unceasingly changing): Biến động không ngừng.

([4]) Thiên mạng, Thiên mệnh 天命 (Heaven’s missioner): Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó. Đồng nghĩa với Thiên ân sứ mạng (Heaven’s blessed missioner).

([5]) Khá thành tâm (Be sincere): Hãy lấy lòng thành.

([6]) kiếu (goodbye): Cáo biệt 告別, cáo từ 告辭, từ giã.

([7]) Câu này ý nói: Môn đệ Cao Đài mấy phen chia rẽ, phân ly. lý đào 李桃 (plum and peach blossoms; fig., disciples): Hoa mận và hoa đào (lý hoa hòa đào hoa 李花和桃花), được ví với môn sanh, đệ tử (tỷ dụ sở giáo đích môn sanh 喻所教的門生).

([8]) Câu này ý nói: Mâu thuẫn nội bộ đã quá mức nên đưa đến nông nỗi thế này. thái quá 太過 (excessive, immoderate): Vượt quá mức thông thường.

([9]) Câu này ý nói: Đức Giáo Tông nhiều lần đến Bạch Ngọc Kinh tấu xin Đức Trời Cha. đòi phen: [cổ] Nhiều phen, nhiều lần. Thượng Phụ 上父 (Heavenly Father): Cha Trời.

([10]) giãi bày (making known): Tỏ rõ, nói rõ.

([11]) Trung Hưng: Trung Hưng Bửu Tòa.

([12]) độ tận (tận độ : saving all): Cứu độ hết tất cả. – toàn linh (all souls): Quần linh 群靈 (all souls), tất cả các linh hồn; đồng nghĩa với quần sinh 群生, chúng sinh 眾生 (all living beings, all human beings), vì mỗi người là một điểm linh quang chiết từ Thượng Đế (khối Đại Linh Quang 靈光).

([13]) xương minh 昌明 (flourishing, thriving, well developing): Phát triển mạnh mẽ.

([14]) hoành hành 橫行 (rioting): Làm loạn, phá rối dữ dằn.

([15]) thất điên bát đảo 七顛八倒 (disordered and in a mess; all mixed up and chaotic): Lộn xộn, rối rắm quá đỗi.

([16]) hướng đạo (hướng đạo giả 向導者: spiritual leader; those who lead their coreligionists): Người dẫn dắt đạo hữu.

([17]) Sinh năm 1877 tại làng Mỹ Phước (tổng Định Phước, hạt tham biện Long Xuyên), ông Nguyễn Hữu Phùng (tục gọi Sáu Phùng) là thầy thuốc bắc, nhập môn Cao Đài tại Cao Thiên Đàn (Rạch Giá) đêm 04-6 nhuần Canh Ngọ (Thứ Ba 29-7-1930); ngay sau đó ông được cơ bút phong Thiên Sư (phẩm này không có trong Pháp Chánh TruyềnTân Luật Cao Đài). Đêm 20-7 Nhâm Thân (Chủ Nhật 21-8-1932), Thiên Sư Phùng làm Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài Hội Thánh Minh Chơn Lý. Khi tách khỏi Minh Chơn Lý Thiên Sư Phùng về Long Xuyên, sau đó lập Tam Kỳ Nguyên Nguyên Bản Bản tại Tân An (cuối năm 1937), rồi tạ thế (1940).

Hội Thánh Minh Chơn Lý thành lập tháng 7 Nhâm Thân (tháng 8-1932); ngày 30-01 Mậu Dần (Thứ Ba 01-3-1938) đổi tên là Hội Thánh Chơn Lý. Theo Huệ Nhẫn (Lịch Sử Đạo Cao Đài, quyển II: Truyền Đạo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2008, tr. 433), ngày 15-10 Giáp Tuất (Thứ Tư 21-11-1934) Minh Chơn Lý thay Thiên Nhãn bằng biểu tượng “tâm hòa nhãn” (Thiên Nhãn có trái tim); ngày 15-4 Mậu Dần (Thứ Bảy 14-5-1938), lại thay “tâm hòa nhãn” bằng biểu tượng “Tâm-Thần” (tr. 436).

Điều 12 của Hiến Chương Hội Thánh Cao Đài Chơn Lý nhiệm kỳ V (2020-2025) cho biết: “Thờ thánh tượng ‘Tâm-Thần-Lẽ-Thật’ (trái tim màu đỏ, tròng mắt màu trắng, con ngươi màu đen có viền xanh da trời bao quanh có tia hào quang).”

([18]) suy đồi 衰頹 (weak and degenerate): Yếu ớt và sa sút (xuống cấp, thoái hóa 退化).

([19]) Chẳng hạn, lời thề khi nhập môn được Đức Chí Tôn ban cho gồm ba mươi sáu (12x3) chữ: “Thề rằng từ đây biết một đạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì thiên tru đa lc.” (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn đêm 11 rạng 12-3 Bính Dần, Thứ Năm 22 rạng Thứ Sáu 23-4-1926). Tuy nhiên, vì sợ rằng thề độc như trên thì không ai dám nhập môn, sau này có nơi cả gan sửa lời Đức Chí Tôn là: . . . như sau có lòng hai thì Ơn Trên soi xét [sic].

([20]) vẽ vời (adding sth unnecesary and harmful): Thêm thắt, bày vẽ những thứ không cần mà có hại, khiến cho sái chân truyền.

([21]) nội tình 內情 (internal situation): Hoàn cảnh bên trong một tổ chức.

([22]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn ngày 15-7 Bính Dần (Chủ Nhựt, 22-8-1926), Đức Chí Tôn dạy: Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Âm Tự lập pháp Tam Kỳ Phổ Ðộ, quỷ vương đã khởi phá khuấy chơn đạo, đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi. / . . . [Nó] hiệp tam thập lục động đổi gọi tam thập lục thiên. Các tên chư Thần Thánh, Tiên Phật bị mạo nhận mà lập nên tả đạo.

([23]) tà vọng: 1/ Quỷ quái và phi lý (邪妄: demonic and absurd). 2/ Ước muốn bất chánh (邪望: evil wishes).

([24]) ngũ đại châu 五大洲: 1/ Năm châu lớn (the five continents) trên thế giới, gồm: Á châu 亞洲 (Asia), Âu châu 歐洲 (Europe), Đại Dương châu 大洋洲 (Oceania: bao gồm các đảo ở Thái Bình Dương và các biển lân cận), Mỹ châu 美洲 (America), và Phi châu 非洲 (Africa). 2/ Cả thế giới (the whole world).

([25]) tệ đoan 弊端 (harm or detriment): Điều xấu, có hại.

([26]) Trung Châu 中洲, 中州 (Central Vietnam): Cũng gọi là Trung Kỳ 中圻 (thời Minh Mạng, 1834), Trung Bộ 中部 (từ tháng 5-1945), Trung Việt 中越 (thời Bảo Đại, 1949), Trung Phần 中分 (thời Ngô Đình Diệm, 1955), thường gọi là miền Trung.

([27]) trung hưng chánh pháp 中興正法 (restoring the true dharma): Phục hưng lại chánh pháp từ chỗ suy yếu, sứt mẻ trở thành vững mạnh, toàn vẹn.

([28]) Tiên Thiên: Hội Thánh Tiên Thiên với tiền bối Lê Kim Tỵ (1893-1948).

([29]) Liên Hòa: Cao Đài Đại Đạo Liên Hòa Tổng Hội, thường gọi tắt là Liên Hòa Tổng Hội, với tiền bối Nguyễn Phan Long (1889-1960).

([30]) Hậu Giang: Hội Thánh Hậu Giang (Minh Chơn Ðạo) với hai tiền bối Trần Đạo Quang (1870-1946) và Cao Triều Phát (1889-1956).

([31]) Minh Sư: Với tiền bối Trần Đạo Quang.

([32]) chơn truyền đạo pháp lúc ban sơ: Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, lễ nghi niêm thức nay là Kinh Tận Độ.

([33]) con đường độc đạo (the only path): Một con đường duy nhất dẫn tới đích mà thôi; ngoài nó thì không có đường nào khác.

([34]) Công Đồng 公同 (Council): Cũng gọi là Hội Công Đồng, gồm các thành viên được tuyển chọn để họp bàn nhằm đưa ra các khuyến nghị, quyết định quan trọng, thiết lập và thi hành kế hoạch, v.v… Giáo Hội Công Đồng là Công Đồng do Giáo Hội triệu tập để họp bàn những vấn đề vô cùng quan trọng của Giáo Hội Cao Đài.

([35]) Đài tưởng niệm tên là Linh Tháp. Khoảng cuối tháng 3-1975 thì không còn phần tháp và tượng tiền khai Trung Kỳ là Đức Huỳnh Ngọc Trác (1898-1945, quả vị Liễu Tâm Chơn Nhơn) đứng trên đỉnh tháp. Nay chỉ còn chân đế, tại khối 3, xã Nghĩa Trung, thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

([36]) cảm khái 感慨 (deeply moved): Thương cảm, xúc động sâu sắc.

([37]) Tôn giáo thường được ví là thuyền (boat), nhưng cũng được ví là xe (vehicle).

1/ Bên Trung Hoa có Mâu Tử 牟子 (170-?) là người quận Thương Ngô (nay thuộc tỉnh Quảng Tây). Ông ví tôn giáo như thuyền và xe, tuy khác nhau về phương tiện (pháp môn: methods) nhưng giống nhau về mục đích (cứu độ chúng sanh: salvation); do đó, khi viết Lý Hoặc Luận 理惑論, ông bảo: Châu dư dị lộ, câu trí hành lữ. 舟輿異路, 俱致行旅. (Thuyền và xe khác lối nhưng đều đưa khách lữ hành tới đích. – Boats and carriages travel in different ways, but both can take their travellers to their destination.)

2/ Thin sư Hương Hi (1631-1718) đời Hậu Lê xem Tam Giáo như ba c xe đều đưa người đến cùng mt đích; do đó, trong bài Lý S Dung Thông, sư viết: Nho dùng Tam Cương, Ngũ Thường / Đạo gìn Ngũ Khí, giữ giềng Ba Nguyên / Thích giáo nhân Tam Quy, Ngũ Giới / Thể một đường xe phải dụng ba. – Confucianism uses Three Bonds and Five Constant Virtues. / Daoism preserves Five Vital Forces and Three Origins. / Buddhism teaches Threefold Refuge and Five Precepts. / They are like three vehicles on the same path. (Huệ Khải, Tam Giáo Việt Nam: Tiền Đề Văn Hóa Mở Đạo Cao Đài. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013, tr. 71, 174.)

([38]) khẩn thiết 緊切 (urgent): Cần kíp, cấp bách.

([39]) tu xá 修舍: Nhà tu cho nam (monastery) hay nữ (convent).

([41]) ma (hindrances to one’s self-cultivation): Ma chướng 魔障, những chướng ngại cản trở việc tu hành. – ngoại ma 外魔 (external hindrances to one’s self-cultivation): Những chướng ngại từ bên ngoài cản trở việc tu hành, thí dụ: loạn lạc, chính sách kỳ thị tôn giáo, những thành tựu về công danh sự nghiệp, được người khác phái hay đồng phái (gays, lesbos) say mê đeo đuổi, v.v... – nội ma (internal hindrances to one’s self-cultivation): Những chướng ngại từ bên trong cản trở việc tu hành, thí dụ: Thói hư tật xấu bản thân, ngũ quan không toàn vẹn, bệnh tật, thất học, tối dạ, v.v…

([42]) tiền đồ 前途 (prospects, future): Con đường phía trước, tương lai.

([43]) cùng thông 窮通 (unhappy and happy, uneasy and easy): Khốn khổ và sung sướng, bế tắc và hanh thông. – bĩ thái, bĩ thới 否泰 (rise and fall, good and bad): Thăng trầm, may rủi, sướng khổ.

([44]) Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, khuya 17-02 Kỷ Hợi (Thứ Sáu 22-3-2019), Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh dạy: Sông núi cách ngăn bởi chữ / Chữ bớt dấu ấy là ta / Ta nào cũng muốn trên người khác / Mất đức khiêm rồi khổ lắm đa!

([45]) Ngọc bệ 玉陛 (jade step where the God’s throne is placed; fig., God): Thềm ngọc, nơi đặt ngai Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế; ám chỉ Đức Chí Tôn (do đó viết hoa chữ Ngọc).

([46]) Câu này ý nói: Thầy trách các con vốn là phần tử thượng trí (hiểu đạo lý) mà lại chia rẽ, không biết hòa hợp. – thượng lưu 上流 (upper class) theo ngữ cảnh nên hiểu là thượng trí .

([47]) Đế Đạo 帝道 (the Way of Heaven, the Heaven’s Way): Đạo của Trời, Thiên Đạo.

([48]) Thầy các con (I’m your Master.): [Ta là] Thầy [của] các con. Trong tiếng Việt, chữ của thường được hiểu ngầm. Thí dụ: đất nước tôi, gia đình tôi, cha mẹ tôi, vợ tôi, chồng tôi, các con tôi… Nếu viết “Thầy, các con!” thì sai. (Đức Mẹ giáng cơ thường xưng: Mẹ Linh Hồn các con, có nghĩa: [Ta là] Mẹ Linh Hồn [của] các con. (I’m your Spiritual Mother.)

([49]) tao loạn 騷亂 (war, disturbance): Loạn lạc, giặc giã nhiễu nhương.

([50]) cảnh trạng 景狀 (circumstances, situation): Hoàn cảnh 環境, tình trạng 情狀.

([51]) lẽ đáng: Lẽ ra, đáng lẽ.

([52]) chiên (cao dương 羔羊: lamb; fig., believer): [Chúa] cừu; nghĩa bóng là tín đồ.

([53]) xương minh 昌明: 1/ Phát triển mạnh mẽ, rực rỡ (phát dương quang đại 發揚光大, hưng thịnh 興盛: flourishing, well developing). 2/ Làm cho sáng tỏ, mọi người hiểu rõ (making sth well understood).

([54]) vọng tâm 妄心 (untrue mind): 1/ Lòng mơ tưởng sái quấy. 2/ Lòng dạ sái quấy, càn bậy.

([55]) thiên kiến 偏見 (bias, prejudice): Thành kiến 成見, ý kiến lệch lạc, không công bằng.

([56]) đình trệ 停滯 (coming to a standstill, getting bogged down): Bế tắc 閉塞, ngưng lại, không tiến triển nữa vì bị trở ngại.

([57]) tu tánh luyện mạng 修性煉命 (cultivating both nature and life, dual cultivation of nature and life): Tính mệnh (tánh mạng) song tu 性命雙修. Mạng, mệnh (life) tức là mạng sống của sinh vật (sinh mệnh 生命, sinh vật đích sinh mệnh 生物的生命). Tiên Học Từ Điển 仙學辭典 của Đới Nguyên Trường 戴源長 giảng rằng tu tánh là tu tâm, thuộc về vô vi, lấy luyện thần làm chính; tu mạng tức là dưỡng thân (bảo dưỡng thân thể 保養身體 để thân thể khỏe mạnh, kéo dài mạng sống), thuộc về hữu vi, lấy luyện tinh và khí làm chính. Tu tánh luyện mạng (tính mệnh song tu) nghĩa là đồng thời tu luyện cả hai phần tính và mệnh, là phép tu thượng thừa (cao nhất) và Tính Mệnh Khuê Chỉ 性命圭旨 gọi đây là phép tu Kim Tiên 金仙.

([58]) tu đơn, tu đan 修丹 (practising inner self-cultivation): Công phu 功夫, tịnh luyện 淨煉, thuộc về nội giáo tâm truyền 教心傳 (esotericism).

([59]) tân pháp 新法 (new method): 1/ Phương pháp tu hành trong Kỳ Ba ân xá (các phép tu trong Nhất Kỳ và Nhị Kỳ gọi là cựu pháp : old methods). 2/ Phép tu thiền (tịnh luyện, công phu: practising inner self-cultivation) theo Cao Đài.

([60]) hầu kề: Gần kề, sắp cận kề, sắp xảy ra.

([61]) cộng nghiệp 共業 (collective karma): Nghiệp xấu mà cả một tập thể phải cùng nhau chung chịu trả quả.

([62]) ác tập 恶集 (gathering vices): Tập hợp những gì xấu xa, tội lỗi.

([63]) ta bà, sa bà 娑婆 (the world): Cõi thế gian, nói đầy đủ là ta bà thế giới 娑婆世界.

([64]) ngày phán đoán (tối hậu thẩm phán nhật 最後審判日: the judgment day, the judgement day): Ngày phán xét cuối cùng (the final judgment day).

([65]) Thiên môn 天門 (the Heaven’s gate): Cửa Trời.

([66]) thông công 通功 (communion; communicating with deities): [Chúa] liên lạc, tiếp xúc (các Đấng thiêng liêng).

([67]) tín giáo (believers, disciples, followers): Tín hữu , giáo đồ , môn sanh 門生, tín đồ .

([68]) tín đồ tử đạo (tuẫn đạo giả 殉道者, tuẫn giáo giả 殉教者: martyr): Tín đồ bị giết chết vì chánh sách kỳ thị tôn giáo.

([69]) mật thất 密室 (private cell for practising inner self-cultivation): Phòng riêng dành cho người tu tịnh luyện. – tân pháp có ghi nhận khoản tịnh đường, mật thất: Tân Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã được Hội Thánh Tây Ninh cho in (Sài Gòn: nhà in Commerciale C. Ardin, 1927) gồm 14 trang (15x24cm). Trọn trang 13 nói về Tịnh Thất, gồm tám điều.

([70]) vọng động vọng hành 妄動妄行 (acting recklessly, rushing indiscriminately into action): Hành động bừa bãi, vội vã làm càn mà không nghĩ tới hậu quả.

([71]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển II, đàn ngày 12-12 Kỷ Tỵ (11-01-1930), Đức Chí Tôn dạy: Vì có ghét nhau, vạn loại mới khi nhau; khi lẫn nhau mới tàn hại hại nhau, mà tàn hại lẫn nhau, là cơ diệt thế. Vậy, Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương yêu nhau, thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à!

([72]) cảm người (cảm nhân 感人, cảm hóa 感化: making sb touched or moved and better his character): Làm cho người khác xúc động, động lòng mà sửa đổi bản thân họ từ xấu thành tốt.

([73]) phục người (phục nhân 服人: winning sb’s respect, obeyance, and support): Làm cho người khác quy thuận, phục tòng, tín phục (sử nhân tín phục, phục tòng, quy thuận 使人信服, 服從, 歸順); thâu phục lòng người để họ hợp tác, ủng hộ mình.

([74]) chấp hành 執行 (executing sth, carrying out sth, implementing sth): Thi hành, thực thi.

([75]) pháp đạo (giáo luật 教律: Caodai laws): Luật pháp trong tôn giáo; luật đạo Cao Đài.

([76]) tiến thủ 進取 (moving forward to grasp the success): Tiến lên để nắm lấy thành công.

([77]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([78]) thiệt hành (thật hành, thực hành 實行: implementing sth, carrying out sth, putting sth into practice): Tiến hành, thực hiện, thi hành.

([79]) phổ cập 普及 (spreading sth extensively, generalising sth, widespreading sth, universalising sth): Lan truyền rộng khắp nơi.

([80]) bền dạ sắt, vững lòng son (steadfast; faithful and unwavering): Bền vững lòng dạ son sắt, lòng trung trinh bền vững. son (vermilion): Màu đỏ thắm khó phai. sắt (iron): Kim loại cứng và bền.) – dung hòa 容和 (harmonising or tolerating differences): Hòa hợp các khác biệt để không chống đối nhau.

([81]) nấu thịt nồi da: Nồi da nấu thịt (bì oa chử nhục 皮鍋煮肉: Cooking meat in a skin pot; fig., insiders fighting one another), nồi da xáo thịt, tức là nội bộ tương đấu 內部 相鬥, nội bộ tương tranh 內部 相爭, đồng đạo trong cùng thánh sở hay cùng Hội Thánh mà mâu thuẫn, kình chống lẫn nhau.

([82]) chẳng nài (not mind doing sth): Chẳng ngại, chẳng quản ngại, chẳng ngán ngại.

([83]) bách chiết thiên ma 百折千磨 (myriads of torment): Cũng nói thiên ma bách chiết 千磨百折. ma: Mài cho mòn. chiết: Bẻ cho gẫy. bách, thiên: Vô vàn, vô số. bách chiết thiên ma: Vô vàn những cực khổ, khốn đốn về thể xác và tinh thần.

([84]) tuế nguyệt: 歲月: Năm tháng (years); thời gian (time).

([85]) phong ba 風波 (wind and waves; fig., disturbance, restlessness, crises): Gió và sóng; nghĩa bóng là sự rối ren, không yên ổn, những cuộc khủng hoảng

([86]) vẽ bày (adding sth unnecesary and harmful): Bày vẽ, vẽ vời, thêm thắt những điều không cần mà lại còn có hại.

([87]) trần (the earthly world): Trần thế 塵世, cõi đời.

([88]) phong trần 風塵 (wind and dust; fig., hardships of life): Gió và bụi; ám chỉ những nỗi gian nan, vất vả trong đời.

([89]) hội : 1/ Lúc (moment). 2/ Dịp, cơ hội (opportunity).

 

HUỆ KHẢI chú thích & LÊ ANH MINH hiệu đính