Thứ Ba, 16 tháng 2, 2021

2. TU RỒI SỨ MẠNG LẠI TRAO / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 

2. TU RỒI SỨ MẠNG LẠI TRAO

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 11-01 Tân Sửu (Thứ Bảy 25-02-1961)

THI

ĐẠO Trời mầu nhiệm, gắng công tu

ĐỨC hạnh trò Tiên phải đứng đầu ([1])

CHƠN thật lòng rồi, ơn phước thấy ([2])

TIÊN Thần muốn đạt khó gì đâu.

BÀI

Ngày xuân dạo chốn trần gian

Nương cậy thần bút,([3]) giáng đàn đề thi

Xuân về một lúc xuân đi

Gởi bao tươi đẹp, phương phi ([4]) cho đời.

Muôn dân cùng chịu ơn Trời

Sống còn vui khổ, ta người có nhau ([5])

Người đau là tức mình đau

Có gì phân biệt với nhau rầy rà.([6])

Lo tu muôn việc bỏ qua

Để lòng thanh tịnh giao hòa đón ân ([7])

Có thân đừng nặng vì thân ([8])

Quên thân thì được thập phần ([9]) cao sang.

Lo tu, ơn phước Thầy ban

Lo tu mới thấy niết bàn tại tâm ([10])

Mưu thâm thì họa cũng thâm

Thâm thâm nhiễm nhiễm, sanh tâm não phiền.([11])

Bây giờ cầu học pháp Tiên

Dọn lòng trong sạch, Thầy truyền dạy cho

Dọn mình, mọi sự thôi lo

Dọn mình thanh tịnh như tro đã vùi.([12])

Tu rồi lòng chỉ biết vui

Vui cho khỏe khoắn, đẩy lui trần tình ([13])

Tu rồi mới thấu pháp linh ([14])

Ở trong miệng sói mà mình không sao.([15])

Tu rồi sứ mạng lại trao ([16])

Trao cho Hội Thánh ban rao pháp quyền

Bây giờ Ta để lời khuyên

Sóng to gió dữ, vững thuyền vượt qua.

Bên kia, bờ giác không xa

Lái lèo Thầy đã cho ta độ thuyền ([17])

Từ đây qua khỏi giang biên ([18])

Cũng năm ba hiệp đảo điên ba đào.([19])

Lạ gì sóng gió xôn xao

Con thuyền rạch nước, sợ nào ([20]) không đi

Nhắm về Nam, hướng cung Ly ([21])

Có Thầy có bạn, có kỳ mừng vui.

Ngược dòng thuyền phải trôi lui

Trôi lui, đâu phải cho lùi về sau

Ngược dòng đâu dễ muốn mau ([22])

Rán công chèo chống, trước sau mấy lèo.

Giang biên qua,([23]) khỏi phải chèo

Khỏi rồi, buông lái thả lèo khỏe ru.

THI

Ru ru rủ rủ có là ai

Ai biết Đạo mầu, luyện thánh thai ([24])

Thai tức ([25]) được truyền ơn bố hóa

Hóa người phàm tục lại Thiên đài.([26])

Đài Cao có chỗ ngự muôn quyền

Có chỗ Thầy trao pháp vạn duyên

Có đức có tài, khai phước huệ ([27])

Có gan,([28]) Thầy sẽ dẫn về Tiên.

Thăng.



([1]) Câu này ý nói: Là học trò Tiên thì đức hạnh phải trên hết. (Virtue is the first concern of every Caodai disciple.)

([2]) Câu này ý nói: Người nào tu hành chơn thật sẽ được ơn phước Trời ban cho. (Honest self-cultivators will receive Heaven’s blessing.)

([3]) thần bút 神筆 (wondrous means of invocation): Cơ bút thần diệu. – nương cậy thần bútPhụ bút 附筆 (relying on a wondrous means of invocation), nương nhờ vào cơ bút thần diệu.

([4]) phương phi 芳菲 (fragrant): Thơm tho. (Người Việt thường dùng phương phi để chỉ thân hình, mặt mũi béo tốt.)

([5]) Câu này ý nói: Cuộc sống còn lẫn lộn khi vui lúc khổ, mọi người nên giúp đỡ lẫn nhau. (Because life is not always happy, people should help one another.)

([6]) rầy rà (annoyed, vexed): Phiền lòng, bực bội.

([7]) giao hòa (giao đi hòa ái 交對和藹behaving cordially towards each other): Đối xử với nhau thân thiện. – đón ân (expecting Heaven’s blessing): Chờ đón nhận ơn Trời.

([8]) Câu này ý nói: Đừng ích kỷ, chỉ biết riêng mình. (Don’t be selfish.)

([9]) thập phần 十分 (completely): Trọn vẹn.

([10]) niết bàn tại tâm 涅槃在心 (nirvāṇa in mind; free from passions and illusions): Phiền não không còn trong lòng.

([11]) não phiền (phiền não 煩惱afflictions or distress; passions and delusion or illusions): Phiền não là từ gọi chung những gì làm cho tâm hồn rối loạn, buồn sầu, khổ não. Bất kỳ thứ gì tác động đến tâm hồn, làm trở ngại sự tu tập để đạt được tâm thanh tịnh hay sự giác ngộ đều gọi là phiền não. Vì bị mê lầm (ảo tưởng hay huyễn tưởng) chi phối, vì muốn thỏa mãn ham muốn mà tâm hồn bị phiền não. Nếu căn cứ theo mặt chữ thì dịch phiền não là afflictions, distress; căn cứ theo nghĩa nhà Phật thì dịch phiền não là passions and delusion (illusions). Trái nghĩa với phiền não là thanh tịnh 清淨 hay bồ đề 菩提 (bodhi). Tại Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam ngày 13-8 Kỷ Mùi (Thứ Tư 03-10-1979). Đức Mẹ dạy: Đất phiền não bồ đề vun xới / Lìa thế gian sao tới niết bàn.

([12]) tro đã vùi (lãnh khôi 冷灰cold ash): Tro lạnh.

([13]) trần tình 塵情 (worldly emotion, earthly feeling): Phàm tâm tục tình 凡心俗情, tình cảm phàm tục.

([14]) thấu (thoroughly comprehending sth): Thấu suốt. – pháp linh (linh pháp 靈法efficacious dharma): Pháp linh nghiệm.

([15]) Câu này ý nói: Người chơn tu luôn được các Đấng thiêng liêng che chở dù cho gặp lúc tai nạn dẫy đầy. Đức Vô Cực Từ Tôn dạy: Mẹ nhắc nhở các con giữ chánh tâm hành chánh đạo thì sẽ luôn luôn sẵn có một khoảng trống an lành sẵn dành cho các con trong cơ cộng nghiệp. (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, 13-8 Kỷ Mùi, Thứ Tư 03-10-1979).

([16]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([17]) Câu này ý nói: Thầy đã ban trao những bí quyết để tu hành hầu thoát khổ.  lèo lái (halyards and a rudder): Dây lèo điều khiển cánh buồm và bánh lái thuyền. – độ thuyền (độ mê hà thừa thuyền 渡迷河乘船crossing the river of delusion by boat): Dùng thuyền (đạo pháp) vượt qua sông mê (cõi trần).

([18]) giang biên 江邊 (river bank): Bờ sông; ý nói bờ bên này, bờ mê, tức cõi trần.

([19]) ba đào 波濤 (great waves, billows): Ba là sóng, đào là sóng lớn. Gộp chung, ba đào là sóng lớn, sóng cồn.

([20]) sợ nào: Sợ gì, há sợ.

([21]) Theo bát quái hậu thiên, quẻ Ly   ở phương Nam, tượng trưng lửa, mặt trời, v.v... (Phải chăng câu này ngụ ý dạy Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài nên tìm cách liên kết với các Hội Thánh trong Nam?)

([22]) Câu này ý nói: Chèo thuyền ngược nước mà muốn đi mau thì đâu dễ gì. Nghĩa bóng: Đường tu hành phải nhẫn nại, kiên trì, không thể muốn sớm thành đạo mà được.

([23]) Qua tới bờ bên kia, đến bến giác.

([24]) thánh thai 聖胎 (holy embryo): Hình tượng trong phép tu Tiên. Theo Tiên Học Từ Điển 仙學辭典 của Đới Nguyên Trường 戴源長, thánh thai chỉ sự kết hợp chơn thần, chơn khí; sau mười tháng thì có anh nhi 嬰兒, thêm ba năm bú mớm (tam niên nhũ bộ 三年乳哺) nuôi anh nhi thì chứng Thiên Tiên, thêm chín năm ngó vách (cửu niên diện bích 九年面壁) thì chứng Kim Tiên.

([25]) thai tức 胎息 (embryonic breath): Hơi thở của bào thai. (Lúc còn trong bụng mẹ, thai thở mà không dùng mũi và miệng.)

([26]) Câu này ý nói: Biến đổi người phàm trở thành Tiên để đến cõi trời (Thiên đài 天臺).

([27]) phước huệ 福慧Phước huệ song tu 福慧雙修 (self-cultivation by synchronously doing good deeds and practising meditation). Tu phước là siêng chăm làm lành để giải trừ các nghiệp xấu của bản thân. Tu huệ là tu tịnh, tịnh luyện (công phu).

([28]) có gan: Có gan dạ chịu bỏ hết mọi thú vui trần gian mà chịu nhẫn nại tu hành gian khổ.

 

Huệ Khải chú thích & Lê Anh Minh hiệu đính