Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2021

5. LO SỬA TRAU CHO THÀNH CON NGƯỜI GIẢI THOÁT / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 

5. LO SỬA TRAU CHO THÀNH CON NGƯỜI GIẢI THOÁT

Tu xá Phước Huệ Đàn (Tam Kỳ, Quảng Nam)

ngày 09-9 Tân Sửu (Thứ Tư 18-10-1961)

THI

BẢO đi bảo lại bấy nhiêu lần

THỌ lãnh ([1]) rồi lo luyện lấy thân

THÁNH được trổi sanh,([2]) phàm mới diệt

NƯƠNG nhờ quyền pháp đón hồng ân.

Bản Nương chào quý liệt vị Thiên ân. Chào chư hiền nữ. Mời an tọa.

Hôm nay, ơn phước đã về lại cùng chúng ta, cũng nhờ lòng từ bi của Từ Tôn Kim Mẫu. Mẹ lúc nào cũng tư tư thiết thiết,([3]) trông về đám con tội lỗi nơi cõi trần này. Người chẳng nại chẳng buồn dù đứa ấy phạm ác đến đâu cũng quyết ân cần làm cho nó đến khi giác ngộ. Người luôn luôn nài xin Tòa Tam Giáo mở lượng khoan hồng để lần hồi Người sẽ dùng quyền pháp, ân oai mà cứu trọn đám nguyên căn ([4]) trở về Thiên quốc.([5]) Lòng từ bi đến thế, tưởng còn hơn trời rộng đất dày.[5b] 

Nếu buổi hạ nguơn này không nhẫn nại bao dung như lòng của Đức Mẹ, thì hầu hết toàn linh ([6]) sẽ mãi đắm chìm trong bể khổ. Riêng như nhóm bạn chúng ta đây cũng khó hòng trông mong có ngày hồi phục.([7]) Chị em nữ phái nói chung, tu sĩ nói riêng đã trái phạm. Đôi lúc lòng dạ chư Thần phẫn nộ, chư Thánh chẳng muốn nhìn. Nếu không bởi sự lân mẫn, yêu thương của Mẹ nơi [cõi] trời thì làm sao còn được bảng hồng danh trên Ngọc Khuyết.([8])

Chị em lẩn thẩn quá! Hồi tỉnh hồi say. Buồn cười thay! Lúc tu lúc nghỉ. Nếu quyền pháp này không ở vào cơ tận độ thì vạn kiếp chúng ta cũng luẩn quẩn trong cõi lao trần.([9])

Phật Trời nào có muốn hành phạt ai. Cực bất dĩ ([10]) không răn đe, không trừng trị thì nương đâu còn trong thánh thể. Nếu ngày nào chị em chẳng được Thần Thánh nhắc đến nói đến, thì ngày ấy chị em đã không còn ở trong bộ hệ Thần Tiên.

Vì thương mà phải dạy phải bày, phải dụng oai linh, đề ra kỷ luật. Nếu không thì có khác chi thiên hạ ngoài đời. Họ chém cha, giết thầy, hại bạn; Thần Tiên nào động địa ([11]) đến.

(. . .)

PHÚ

Thuyền phước huệ chống chèo qua khúc ngược,

Gắng cùng nhau xông lướt khỏi sông mê.

Giữ làm sao trên dưới được đề huề,

Tròn phận sự trở về ngôi Vô Cực.

Trong nội bộ từ lâu hơi bực rực,([12])

Sự ở ăn chấp nhất, tình ý không hòa.

Sao các em nỡ phụ lời Ta,

Ngoài hoàn cảnh xấu xa, trong ruột rà thêm bẩn thỉu.

Đáng lẽ ra một người hư muôn người chịu,

Chịu hư luôn mới liệu mới khổ làm sao!

Sống giữa nhau là cốt nhục đồng bào,

Lo tu học, lo sửa trau cho thành con người giải thoát.([13])

Chưa kinh nghiệm, nghe lời chị anh cô bác,

Để tránh điều phỉnh gạt mà đi lạc theo nẻo ma tà.

Nếu thiệt tu, khôn dại cũng cho qua,

Để lòng khỏi yêu ma gây rối loạn.

Lời hồng thệ trông có Thầy, nhờ có bạn,

Nhắm tương lai mà cáng đáng việc bây giờ.

Khổ đau của bạn phải chia lo,

Lòng chớ làm ngơ mà chị em bơ vơ, thiếu tình thân mật.

Nghe gia trưởng đem về lẽ thật,

Nghe tịnh đường khải mật ([14]) nẻo thông công.

Nghe hộ trì Phước Thiện lập công,

Nghe giám đốc mở lòng khai trí.

Rồi nghe bạn những lời tùy hỷ,

Rồi nghe lòng bày chỉ lẽ hơn thua.

Rán mà tu, tu phải ganh đua,

Đua theo Đạo mà tiến, chớ sút thua rồi hối hận.

Mẹ đã thương ban hồng ân mà độ dẫn,

Thì phải lo các tận sở năng.([15])

Vậy xin vui mừng và để lời chào Hội Thánh và chị em đàn nội. Bản Nương xin kiếu.


([1]) thọ lãnh: Thọ lãnh pháp môn tịnh luyện (công phu).

([2]) trổi sanh (growing much better): Sanh sôi nhiều hơn, phát triển trội hơn.

([3]) tư tư thiết thiết: a/ 思思切切 (deeply missing sb): Thiết tha thương nhớ. b/ 偲偲切切 (earnestly advising sb): Thiết tha khuyên nhủ. Xem Phụ Đính cuối bài thánh giáo này.

([4]) nguyên căn 原根 (original root person): Đồng nghĩa nguyên khách 原客 (original guest), nguyên nhân 原人 (original human), tức là linh căn 靈根 có nguồn gốc trên cõi trời, xưa kia nhận lãnh sứ mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa nhân (nhơn) 化人 là người vốn từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú tiến hóa lên.

([5]) Thiên quốc (kingdom of Heaven): Nước Trời.

[5b] trời rộng đất dày (cao thiên hậu địa 高天厚地: trời cao đất dày): Ý nói ơn đức sâu dày (ân đức thâm hậu 恩德深厚).

([6]) toàn linh (all souls): Quần linh 群靈 (all souls), tất cả các linh hồn; đồng nghĩa với quần sinh 群生, chúng sinh 眾生 (all living beings, all human beings), vì mỗi người là một điểm linh quang chiết từ Thượng Đế (khối Đại Linh Quang).

([7]) hồi phục (restoring sth): Phục hồi ngôi vị cũ trên trời.

([8]) Ngọc Khuyết 玉闕 (the Jade Emperor’s Palace): Tức là Huỳnh Kim Khuyết 黃金闕, ám chỉ cung điện của Thượng Đế.

([9]) lao trần (trần lao 塵牢): Lao tù cõi trần. Cảnh thế gian ràng buộc làm con người mất tự do (vì chủ nhơn ông bị lục dục, thất tình sai khiến), vì thế cõi trần ví như chốn lao tù.

([10]) cực bất dĩ (unwillingly): Cực chẳng đã, chẳng đặng đừng, bất đắc dĩ 不得以.

([11]) động địa (mentioning): Đụng chạm, nói đến.

([12]) bực rực: Bực bội, bất bình với nhau.

([13]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([14]) khải mật: Kín đáo hé lộ riêng.

([15]) các tận sở năng 各盡所能 (each does his utmost): Mỗi người làm hết khả năng của mình.