Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2021

7. MỘT PHƯƠNG PHÁP BẢO AN GIÁO HỘI / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 7. MỘT PHƯƠNG PHÁP BẢO AN GIÁO HỘI

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 18-10 Tân Sửu (Thứ Bảy 25-11-1961)

THI

BẢO dân, dưỡng thiện ([1]) cứu đời nguy

NGUƠN hạ ([2]) Thần Tiên độ mạt kỳ ([3])

CHƠN đạo thanh bình đời phục cổ ([4])

TIÊN Thần pháp nhiệm, rán tìm suy.([5])

Chào chư Thiên ân, chư đạo huynh, đạo tỷ. Xin mời ngồi.

BÀI

Trời đông mây ám trăng mờ

Mưa sa gió thét ngẩn ngơ lòng người.

Cơn mạt kiếp nạn đời không xiết ([6])

Buổi hạ nguơn ai biết làm sao?

Trông ra mà thảm đồng bào

Ngày qua ngày lại biết bao khổ nàn.

Giờ ai phải đảm đang,([7]) che chở

Giờ ai lo giúp đỡ giống nòi

Tránh cơn khốc liệt ló mòi

Để toan thoát khỏi đòn roi hội này? ([8])

Bản Quân ([9]) xin ghi đây đôi việc

Để Thiên ân tìm biết mà lo

Mỗi ngày mỗi thấy gay go

Nhân dân co duỗi, đói no không lường.([10])

Trông non nước nhiều phương nhiều sách ([11])

Nạn phái phe đủ cách đủ trò

Dân tình biết mấy điều lo

Đông tây xô xát, lương kho ([12]) cạn dần.

Trên chưa thuận, lòng dân khó vững

Dưới thiếu tâm, chập chững đủ đường

Nên chi ([13]) có loạn mười phương ([14])

Đổi thầy thay tớ ai nhường nể ai.([15])

Đó là việc bên ngoài thời sự

Việc trong nhà ta xử sao đây?

Đức tin duy nhất nơi Thầy

Gần xa trên dưới dẫy đầy cậy tin.

Để có chỗ mà vin ([16]) mà tựa

Để có nơi mà dựa mà che

Để toan cứu vớt bạn bè

Để quyền pháp tỏ, chở che trong ngoài.

Lúc Hội Thánh dương oai ([17]) bảo hộ ([18])

Để cho cơ phổ độ rộng truyền

Mặc dù thời thế đảo điên ([19])

Đảo điên ta phải dùng quyền trấn an.

Rồi ta đây vững vàng, độc lập

Bởi không thiên ([20]) không chấp mà thành

Đứng trong nam bắc phân tranh

Mà làm cho Đạo trưởng thành mới hay.

Đức Giáo Tông hứa với các hiền Thiên ân trách nhiệm vào ngày sơ phục ([21]) mới lộ bày thuật kế ([22]) bảo pháp an đạo. Song ([23]) các hiền Thiên ân phận sự nóng lòng lo cho cơ biến chuyển mà sợ họa hại ([24]) đến đạo tràng ([25]) nên mới có ngày nay. Cũng một dịp may Bản Quân đến cùng quý huynh hiến một phương pháp bảo an Giáo Hội;([26]) song cũng được Đức Giáo Tông truyền dạy như thế mà làm.([27])

THI

Con thuyền thế giới gặp phong ba ([28])

Nhân loại nhô nhô hoảng ré la

Vững lái lo gì nhờ Hội Thánh

Lái thuyền là một vượt mà qua.

Lái không bao lớn lái thuyền to ([29])

Hội Thánh thấy mà gắng phận lo

Cũng ví trái cân cân vạn tạ ([30])

Đừng lầm quyền pháp cứ so đo.

Hội Thánh vừa qua gặp khó khăn

Khó khăn nội bộ mất thăng bằng

Hôm nay cố gắng đem về một

Mới bảo toàn xong đám thiện căn.([31])

Đoái lại bên sau vạn vạn người

Họ đương trông ngóng, chẳng dể duôi ([32])

Vì đời ta phải quên thân ([33]) mới

Mới được làm xong ý của Trời.

Làm xong sứ mạng ở người mình

Phải gắng vì Trời xót chúng sinh

Dẫn bước đàn em qua khúc khổ ([34])

Lấy lòng quyền pháp đón đao binh.

Binh Trời đã đến, nạn đời cao

Biển lửa thế gian cũng phủ bao ([35])

Thần chết réo kêu không sót một

Ơn nhờ quyền pháp cứu đồng bào.

Cứu người đâu phải nói la lên ([36])

Cũng chẳng đương đầu ([37]) với giáo tên ([38])

Sứ mạng vững tin, an trấn khắp ([39])

Chính trung,([40]) thanh tịnh,([41]) pháp làm nên.([42])

Trong vòng quyền pháp muốn an toàn

Chư vị Giáo Sư phải sớm toan

Xuống lịnh Thiên ân trì ([43]) pháp luật

Thiện nam tín nữ ([44]) trọn lòng vàng.

Nghĩa là Hội Thánh phải được đồng nhất ([45]) mà cầu hồng ân, rồi ban lịnh cho chư chức sắc khép mình trong quyền pháp mà tu dưỡng, chủ trì ([46]) cơ sở.

Cơ sở đâu đấy theo một chiều hướng chung. Đặt phương tiện cho nhân sinh đồng nhất tin nơi quyền pháp Hội Thánh, lập trường thuần túy đạo đức của Đạo Trời thì vạn nhất ([47]) không có điều gì đáng lo ngại.

Tuy nạn khói lửa sẽ đốt lần từ nơi hoang dã đến chốn thị thành không chừa một chỗ nào; song với pháp thuần chân, quyền sứ mạng, nó không làm thế nào mà thép mềm uốn vẹo đi được. Khi đã không hề hấn thì danh Đạo được tăng, người đạo được trọng, việc làm của Thầy được nên. Mới thấy trái cân bé nhỏ xếp nổi muôn tạ như không thì quyền Trời mới thấy đó mầu nhiệm.([48])

Nên nhớ rằng lúc đông chinh tây chiến chưa nên chọn chủ lựa thầy,([49]) và cho biết rằng có tiểu nhân mới thành quân tử.([50])

Quyền pháp quan trọng hơn lúc này là bảo ([51]) thiện tín ([52]) đặt trọn đức tin nơi Hội Thánh, ở Thầy; nói Hội Thánh có đủ sáng suốt hướng đạo cho toàn đạo trong bất cứ lúc nào, Thầy cũng đủ oai đức chở che và luôn luôn soi dẫn cho toàn đạo linh tâm sáng trí trong khi bối rối và đặt gần ở Hội Thánh một sự thông cảm để truyền đạt thánh ý, thì nhân sinh thân cận với chức sắc mà nương dưới quyền pháp chức sắc, gần gũi cùng Hội Thánh mà tiếp lấy ân điển lành mạnh.

Hội Thánh đặt lòng nơi Thiêng Liêng đặng nhận lãnh cái sứ mạng thì lo gì, sợ gì mà không an toàn cho nhau. Muốn cứu toàn dân, muốn an toàn đạo, phải tin nơi Trời mới an toàn được, thì chức sắc nói chung đặt lòng trong máy mầu([53]) mà hành đạo.

Lúc này nên luôn luôn thanh tịnh,([54]) tăng cường sự quy giới để cầu nguyện cho nhân loại, nhân dân; cầu cho thuyền đạo ở trong sóng gió mà được an bình; cầu cho gia đình đạo hữu sống trong ơn che chở của Thầy.

Đạo hữu cũng hết lòng tăng trai,([55]) quỳ hương cúng nước, cầu xin sống trong ngày đao binh, tao loạn ([56]) được sự che chở của Thầy, giữ thuần túy tu hành hướng về Hội Thánh, nghe lời người làm đầu trong địa phận đạo. Làm được vậy, trăm sự khó khăn cũng giảm tám, chín, mười phần mà thiện khí ([57]) cũng làm cho dịu bớt sự đau khổ của đồng bào. Ơn điển đến nhà mình và cả cho thiên hạ.

Về phần đạo pháp: Giữa Hội Thánh với nhau ([58]) nên khế đồng tâm nguyện.([59]) Tuy mỗi người mỗi việc, nhưng việc nào cũng không trái nhau; có vậy mới chia nhau mà làm xong, giải quyết xong cho mối đạo.

Về việc tu dưỡng của các hiền hữu: Theo thánh ý, cũng đồng thể ([60]) trên phương pháp xây dựng cơ sở theo quy tắc tâm truyền.([61])

Song người hướng đạo ở đâu, làm gì cũng không cách biệt nhau. Việc làm là việc chung, không để một người mà chia nhau nhiều người, theo lời Đức Lý Giáo Tông đã dạy: Mỗi giống mỗi loài có một đặc tính và một sở năng đặc biệt.([62])

(. . .)

NGÂM

Một vài lời gọi tiên tri ([63])

Mong chờ nội bộ một kỳ đồng nhân ([64])

Muốn cho gội được nhiều ân ([65])

Lấy khiêm ([66]) làm pháp tu chân ([67]) hội ([68]) này

Chúng ta nhất luật ([69]) tin Thầy

Giã nhau xin nhớ,([70]) cung mây tôi về.



([1]) bảo dân 保民 (protecting people): Bảo vệ người dân. – dưỡng thiện 養善 (nourishing goodness): Nuôi dưỡng điều tốt lành. – bảo dân dưỡng thiện: Bảo vệ và nuôi dưỡng thiện dân. (Tín đồ còn được Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài gọi là thiện dân 善民. Gia đình của thiện dân gọi là thiện gia .)

([2]) nguơn hạ: Hạ nguơn (nguyên) 下元: Thời kỳ cuối cùng của một đại chu kỳ. Tam nguơn gồm có: 1/ Thượng nguơn (nguơn thượng đức, nguơn tạo hóa, the first kalpa); 2/ Trung nguơn (nguơn thượng lực, nguơn tranh đấu, the second kalpa); 3/ Hạ nguơn (nguơn điêu tàn, nguơn tái tạo để trở lại thượng nguơn, the last kalpa). Hạ nguơn cũng gọi là hạ nguơn mạt kiếp 下元 末劫 hay mạt pháp 末法.

([3]) mạt kỳ 末期 (the last era, the last kalpa): Kỳ chót, kỳ cuối cùng.

([4]) phục cổ 復古 (returning to the ancient era of holy virtue): Trở lại thời xưa thánh đức.

([5]) Bài thơ xưng danh quán thủ là Bảo Nguơn Chơn Tiên. Tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 15-01 Mậu Tuất (Thứ Ba 04-3-1958), Đức Chí Tôn phong tiền bối Trần Nguyên Chí (1914-1957) quả vị Trung Đẳng Huyền Cơ Chưởng Pháp Hộ Đạo Thiên Quân 中等玄機 掌法護道天君, hay Bảo Nguơn Khai Huyền Cơ Tuyển Tiên 保元開 玄機選仙, cũng là Bảo Nguơn Chơn Tiên 保元真仙. – Câu thơ chót ý nói: Đạo pháp Thần Tiên vốn nhiệm mầu; con người hãy rán suy tư tìm học cho thấu đáo.

([6]) không xiết, khôn xiết (indescribable): Không thể nói cho hết.

([7]) đảm đang, đảm đương 擔當 (assuming sth, undertaking sth): Nhận lãnh, gánh vác.

([8]) hội (moment): Lúc.

([9]) Bản (Bổn) Quân 本君 (a formal form of addressing oneself): Bản cũng nói là Bổn. Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên cũng là Hộ Đạo Thiên Quân nên Ngài tự xưng Bản/Bổn Quân. Một vị Thánh thì xưng Bản/Bổn Thánh 本聖. Một vị Thần thì xưng Bản/Bổn Thần 本神. Một vị vương thì xưng Bản/Bổn Vương 本王. Một vị quan chức thì xưng Bản/Bổn Chức 本職. Đời Tống (Trung Hoa) ông Bao Công cai quản phủ Khai Phong nên thường tự xưng Bản/Bổn Phủ 本府. Ngày xưa, một sứ thần nói với người nước khác thì gọi nước mình là Bản/Bổn Quốc 本國 (nước của tôi). Đức Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn khi giáng cơ, nói với đàn em thì xưng Bản/Bổn Huynh 本兄.

([10]) không lường, khôn lường (mạc trắc 莫測: unpredictable): Khó mà đoán trước, không thể tính trước được (nói về điều xấu).

([11]) phương sách 方策 (strategy, policy, general plan): Phương lược 方略, sách lược 策略, chiến thuật 戰術, chính sách, kế hoạch lớn.

([12]) lương kho: Kho lương (lương khố 糧庫: grain depot), kho lương thực, kho thóc.

([13]) nên chi (therefore, thus): [cổ] Vì vậy, bởi thế.

([14]) loạn mười phương (thập phương loạn lạc 十方亂落: fighting and disorder everywhere): Khắp nơi loạn lạc.

([15]) Câu này ý nói: Thời nhiễu nhương, loạn lạc, nhiều phái phe nổi lên chiêu dụ người dân, cạnh tranh lẫn nhau, chẳng ai nể nang hay nhường nhịn ai.

([16]) vin (clinging to sth): Bám víu, vịn lấy.

([17]) dương oai, dương uy 揚威 (displaying one’s majesty): Tỏ lộ cho thấy sự uy nghiêm.

([18]) bảo hộ 保護 (protecting sth): Che chở, giữ gìn.

([19]) đảo điên 倒顛 (chaotic): Xáo trộn, hỗn loạn, tráo trở.

([20]) thiên : Nghiêng, lệch về một phía.

([21]) sơ phục 初伏: Tương ứng mười ngày giữa (trung tuần ) tháng Bảy dương lịch (middle ten days of July). Ngày đầu tiên của mười ngày sơ phục cũng gọi là ngày sơ phục (the first day of the middle ten days of July). Đối chiếu với hai mươi bốn tiết khí 節氣 (the twenty-four divisions of the solar year) thì sơ phục ở khoảng giữa tiết Tiểu Thử 小暑 (Lesser Heat, Slight Heat: nóng ít). Tiểu Thử là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng Bảy và kết thúc vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng Bảy dương lịch.

([22]) thuật kế 術計: Phương pháp 方法 (method) và kế hoạch 計劃 (plan).

([23]) song (however, nevertheless): Tuy nhiên, nhưng.

([24]) họa hại 禍害 (disaster, damage): Tai họa, hư hại.

([25]) đạo tràng, đạo trường 道場 (religious premises): Chỗ tu học, nơi sinh hoạt tôn giáo (chùa, thất, thánh đường, tu viện…).

([26]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([27]) cũng được Đức Giáo Tông truyền dạy như thế mà làm: Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên tuân theo thánh ý Đức Lý Giáo Tông mà truyền đạt phương pháp bảo an Giáo Hội.

([28]) phong ba 風波 (wind and waves, fig., disturbance, restlessness): Gió và sóng; nghĩa bóng là sự rối ren, không yên ổn.

([29]) Câu này ý nói: Bánh lái con tàu (đà : rudder) tuy nhỏ nhưng đổi hướng đi được cả chiếc tàu to lớn hơn nó gấp bội phần.

([30]) Câu này ý nói: Trái cân (kiếp mã 砝碼, pháp mã 法碼: weight) tuy nhỏ nhưng cân được cả hằng ngàn ký.

([31]) thiện căn 善根 (root of goodness): Căn lành, cái gốc rễ tốt lành. Người có thiện căn thấy cái ác thì không chịu nổi (bất nhẫn 不忍), nghe nói đến Trời Phật thì tin kính. – đám thiện căn: Các tín đồ Cao Đài.

([32]) dể duôi (disregarding sth): Cũng như dể dưng. Xem thường, coi nhẹ, cho là không quan trọng.

([33]) quên thân (vong thân 忘身): 1/ Bất cố thân 不顧身, không quan tâm tới bản thân (neglecting oneself). 2/ Vong kỷ 忘己, vong ngã 忘我 (oblivious to oneself, selfless), quên mình, quên cái ta của mình.

([34]) khúc khổ (a stage of unhappiness): Một giai đoạn khổ sở.

([35]) Biển lửa cũng bao phủ thế gian.

([36]) đâu phải nói la lên: Đâu phải lớn tiếng rêu rao ầm ĩ.

([37]) đương đầu (confronting sth, coming face to face with sth): Chống chọi.

([38]) giáo tên (spear and arrow, fig., military force): Ngọn giáo và mũi tên, ý nói vũ lực (súng đạn, giáo gươm).

([39]) an trấn khắp (assuring everywhere): Trấn an khắp nơi, làm cho mọi nơi an tâm, yên lòng.

([40]) chính trung 正中 (neutral, unbiased): Giữ lòng ngay chánh theo đúng Đạo Trời, không nghiêng về bên nào, không ngả theo phe nào.

([41]) thanh tịnh 清淨 (purified and tranquil): Không phiền não (tham dục, mê lầm), không ô nhiễm, không chấp trước, không dính mắc vào bất cứ điều gì.

([42]) Câu này ý nói: Phương pháp thành công là giữ được lòng thanh tịnh và trung chánh.

([43]) trì (maintaining sth): Gìn giữ, duy trì.

([44]) thiện nam tín nữ 善男信女 (male and female devotees of a religion): Người nam và nữ có đức tin mạnh mẽ vào một tôn giáo.

([45]) đồng nhất 同一 (unanimous): Đồng thuận nhất trí 同順一致, hoàn toàn đồng ý với nhau.

([46]) chủ trì 主持 (taking charge of sth, managing sth, directing sth): Quản lý, quản trị, điều hành, coi sóc.

([47]) vạn nhất 萬一 (one ten-thousandth; fig., just in case, if by any chance): Một phần mười ngàn; trong muôn một, ý nói rất khó xảy ra tuy vẫn có thể xảy ra.

([48]) Câu này giảng rõ câu thơ ở trên: Cũng ví trái cân cân vạn tạ.

([49]) lúc đông chinh tây chiến chưa nên chọn chủ lựa thầy: Giảng rõ hai chữ chính trung trong câu thơ ở trên: Chính trung, thanh tịnh, pháp làm nên.

([50]) có tiểu nhân mới thành quân tử: Lúc loạn lạc nhiễu nhương (đông chinh tây chiến) chưa rõ mặt anh hùng, đến khi tiểu nhân lộ mặt thì mới biết ai là quân tử.

([51]) bảo: Khuyên bảo.

([52]) thiện tín 善信: Thiện nam tín nữ 善男信女 (male and female devotees of a religion), tức tín đồ .

([53]) máy mầu: Cơ mầu, huyền cơ 玄機 (mysterious principles), những nguyên lý mầu nhiệm. Đồng nghĩa Thiên ý 天意, Thiên cơ 天機, máy Tạo.

([54]) lúc này nên luôn luôn thanh tịnh: Nhắc lại hai chữ thanh tịnh trong câu thơ ở trên: Chính trung, thanh tnh, pháp làm nên.

([55]) tăng trai 增齋 (observing more vegetarian days): Tăng thêm nhiều ngày ăn chay.

([56]) tao loạn 騷亂 (war, disturbance): Loạn lạc, giặc giã nhiễu nhương.

([57]) thiện khí 善氣 (air of goodness): Bầu khí tốt lành bao phủ một khu vực (nhờ những người sống nơi đó biết làm lành lánh dữ).

([58]) giữa Hội Thánh với nhau: Giữa các nhân sự hay thành phần trong Hội Thánh.

([59]) khế đồng tâm nguyện 契同心愿 (agreeing on aspiration): Hòa hợp với nhau về ước muốn.

([60]) đồng thể: Ở đây có thể hiểu là đồng nhất 同一 (identical, same), giống nhau, không khác.

([61]) tâm truyền 心傳: 1/ Truyền dạy nhau không dùng văn tự, sách vở (direct transmission from mind to mind, as contrasted with the written word). 2/ Nói tắt nội giáo tâm truyền 教心傳 (esotericism), tức là công phu 功夫, tu tịnh, hay tịnh luyện 淨煉 (practising inner self-cultivation).

([62]) Mỗi giống mỗi loài có một đặc tính và một sở năng đặc biệt: Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên tóm tắt thánh ý Đức Lý Giáo Tông dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 22-11-1961: Các vật chia ra giống chạy giống bò, giống bay giống nhảy, thứ trứng thứ con. Một lúc tượng thành, có vật vừa lọt bào thai đã bay, đi hay đứng; cũng có loài phải chờ cho đủ cánh đủ lông. / Vật vật khác hình khác thể thì cũng phải khác tính khác tình. Tính tình, hình thể làm sao đã in khuôn cho mỗi giống. / Vậy giữa các hiền cũng nên suy gẫm lời Già mà học lấy tánh bao dung của Trời rộng mênh mông, trên che dưới chở. (Xem lại bài 6 trong sách này.)

([63]) tiên tri 先知 (foretelling sth, predicting sth): Báo cho biết trước việc sẽ xảy ra.

([64]) đồng nhân 同 人 (in harmony with one another): Hòa đồng với nhau, không chia rẽ, không tranh chấp. Cũng có thể Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên muốn nhắc đến quẻ Dịch thứ mười ba (Thiên Hỏa Đồng Nhân 天火同人) với ý nghĩa chính là sự đồng tâm hòa hiệp giữa người và người.

([65]) gội được nhiều ân (being showered with lots of blessings): Nhận nhiều ơn huệ Trời ban xuống, chan chứa đằm đìa như được tắm gội.

([66]) khiêm (modest): Khiêm nhượng 謙讓, nhún nhường, hạ mình. Sử Ký史記, Nhạc Thư 樂書 chép: Quân tử dĩ khiêm thối vi lễ. 君子以謙退為禮. Người quân tử lấy khiêm nhường làm lễ. (The superior man regards modesty as the principle of propriety.)

Trong Phúc Âm (Gio-an 13:4-5), Chúa Giê-su tự tay rửa chân cho các môn đệ rồi dùng chính khăn thắt lưng của Chúa mà lau, thì Chúa đang lấy thân mình làm gương (thân giáo 身教) cho môn đệ về đức khiêm.

([67]) pháp tu chân (true method of self-cultivation): 1/ Phương pháp tu thân chân chánh. 2/ Phép tu tiên (tu luyện thành chân nhân).

([68]) hội : 1/ Lúc (moment). 2/ Dịp, cơ hội (opportunity).

([69]) nhất luật 一律 (all, without exception): Tất cả mọi người, không loại trừ một ai.

([70]) giã nhau xin nhớ: Từ giã nhau, xin nhớ lời tôi dặn dò.


HUỆ KHẢI chú thích - LÊ ANH MINH hiệu đính.