7. MỘT PHƯƠNG PHÁP BẢO AN GIÁO HỘI
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà
Nẵng)
ngày 18-10 Tân Sửu (Thứ
Bảy 25-11-1961)
THI
BẢO dân, dưỡng thiện ([1]) cứu đời nguy
NGUƠN hạ ([2]) Thần Tiên độ mạt kỳ ([3])
CHƠN đạo thanh bình đời phục cổ ([4])
TIÊN Thần pháp nhiệm, rán tìm suy.([5])
Chào chư Thiên ân, chư đạo huynh, đạo tỷ. Xin mời ngồi.
BÀI
Trời đông mây ám trăng mờ
Mưa sa gió thét ngẩn ngơ lòng người.
Cơn mạt kiếp nạn đời
không xiết ([6])
Buổi hạ nguơn ai biết làm sao?
Trông ra mà thảm đồng bào
Ngày qua ngày lại biết bao khổ nàn.
Giờ
ai phải đảm đang,([7]) che chở
Giờ ai lo giúp đỡ
giống nòi
Tránh cơn khốc liệt
ló mòi
Để toan thoát khỏi
đòn roi hội này? ([8])
Bản Quân
([9]) xin ghi đây đôi việc
Để Thiên ân tìm biết
mà lo
Mỗi ngày mỗi thấy gay go
Nhân dân co duỗi, đói
no không lường.([10])
Trông
non nước nhiều phương nhiều sách ([11])
Nạn phái phe đủ cách
đủ trò
Dân tình biết mấy
điều lo
Đông tây xô xát,
lương kho ([12]) cạn dần.
Trên
chưa thuận, lòng dân khó vững
Dưới thiếu tâm, chập
chững đủ đường
Nên chi ([13]) có loạn mười phương ([14])
Đổi thầy thay tớ ai
nhường nể ai.([15])
Đó
là việc bên ngoài thời sự
Việc trong nhà ta xử
sao đây?
Đức tin duy nhất nơi
Thầy
Gần xa trên dưới dẫy
đầy cậy tin.
Để
có chỗ mà vin ([16]) mà tựa
Để có nơi mà dựa mà
che
Để toan cứu vớt bạn
bè
Để quyền pháp tỏ, chở
che trong ngoài.
Lúc
Hội Thánh dương oai ([17]) bảo hộ ([18])
Để cho cơ phổ độ rộng
truyền
Mặc dù thời thế đảo
điên ([19])
Đảo điên ta phải dùng
quyền trấn an.
Rồi
ta đây vững vàng, độc lập
Bởi không thiên ([20]) không chấp mà thành
Đứng trong nam bắc phân tranh
Mà làm cho Đạo trưởng
thành mới hay.
Đức Giáo Tông hứa với các
hiền Thiên ân trách nhiệm vào ngày sơ phục ([21]) mới lộ bày thuật kế ([22]) bảo pháp an đạo. Song
([23]) các hiền Thiên ân
phận sự nóng lòng lo cho cơ biến chuyển mà sợ họa hại ([24]) đến đạo tràng ([25]) nên mới có ngày nay.
Cũng một dịp may Bản Quân đến cùng quý huynh hiến một phương pháp bảo an Giáo Hội;([26]) song cũng được Đức Giáo Tông truyền dạy
như thế mà làm.([27])
THI
Con thuyền thế giới gặp
phong ba ([28])
Nhân loại nhô nhô hoảng ré la
Vững lái lo gì nhờ Hội Thánh
Lái thuyền là một vượt mà qua.
Lái không bao lớn lái
thuyền to ([29])
Hội Thánh thấy mà gắng phận lo
Cũng ví trái cân cân vạn tạ ([30])
Đừng lầm quyền pháp cứ so đo.
Hội Thánh vừa qua gặp khó
khăn
Khó khăn nội bộ mất thăng bằng
Hôm nay cố gắng đem về một
Mới bảo toàn xong đám thiện căn.([31])
Đoái lại bên sau vạn vạn
người
Họ đương trông ngóng, chẳng dể duôi ([32])
Vì đời ta phải quên thân ([33]) mới
Mới được làm xong ý của Trời.
Làm xong sứ mạng ở người
mình
Phải gắng vì Trời xót chúng sinh
Dẫn bước đàn em qua khúc khổ ([34])
Lấy lòng quyền pháp đón đao binh.
Binh Trời đã đến, nạn đời
cao
Biển lửa thế gian cũng phủ bao ([35])
Thần chết réo kêu không sót một
Ơn nhờ quyền pháp cứu đồng bào.
Cứu người đâu phải nói la
lên ([36])
Cũng chẳng đương đầu ([37]) với giáo tên ([38])
Sứ mạng vững tin, an trấn khắp ([39])
Chính trung,([40]) thanh tịnh,([41]) pháp làm nên.([42])
Trong vòng quyền pháp
muốn an toàn
Xuống lịnh Thiên ân trì ([43]) pháp luật
Thiện nam tín nữ ([44]) trọn lòng vàng.
Nghĩa là Hội Thánh phải được đồng nhất ([45]) mà cầu hồng ân, rồi ban
lịnh cho chư chức sắc khép mình trong quyền pháp mà tu dưỡng, chủ trì ([46]) cơ sở.
Cơ sở đâu đấy theo một chiều hướng chung. Đặt phương tiện cho
nhân sinh đồng nhất tin nơi quyền pháp Hội Thánh, lập trường thuần túy đạo đức
của Đạo Trời thì vạn nhất ([47]) không có điều gì đáng lo
ngại.
Tuy nạn khói lửa sẽ đốt lần từ nơi hoang dã đến chốn thị
thành không chừa một chỗ nào; song với pháp thuần chân, quyền sứ mạng, nó không
làm thế nào mà thép mềm uốn vẹo đi được. Khi đã không hề hấn thì danh Đạo được
tăng, người đạo được trọng, việc làm của Thầy được nên. Mới thấy trái
cân bé nhỏ xếp nổi muôn tạ như không thì quyền Trời mới thấy đó mầu nhiệm.([48])
Nên nhớ rằng lúc đông chinh tây
chiến chưa nên chọn chủ lựa thầy,([49]) và cho biết rằng có
tiểu nhân mới thành quân tử.([50])
Quyền pháp quan trọng hơn
lúc này là bảo ([51]) thiện tín ([52]) đặt trọn đức tin nơi
Hội Thánh, ở Thầy; nói Hội Thánh có đủ sáng suốt hướng đạo cho toàn đạo trong bất cứ lúc nào,
Thầy cũng đủ oai đức chở che và luôn luôn soi dẫn cho toàn đạo linh tâm sáng trí
trong khi bối rối và đặt gần ở Hội Thánh một sự thông cảm để truyền đạt thánh ý,
thì nhân sinh thân cận với chức sắc mà nương dưới quyền pháp chức sắc, gần gũi
cùng Hội Thánh mà tiếp lấy ân điển lành mạnh.
Hội Thánh đặt lòng nơi Thiêng Liêng đặng nhận lãnh cái sứ
mạng thì lo gì, sợ gì mà không an toàn cho nhau. Muốn cứu toàn dân, muốn an
toàn đạo, phải tin nơi Trời mới an toàn được, thì chức sắc nói chung đặt lòng
trong máy mầu([53]) mà hành đạo.
Lúc này nên luôn luôn thanh tịnh,([54]) tăng cường sự quy giới để
cầu nguyện cho nhân loại, nhân dân; cầu cho thuyền đạo ở trong sóng gió mà được
an bình; cầu cho gia đình đạo hữu sống trong ơn che chở của Thầy.
Đạo hữu cũng hết lòng tăng trai,([55]) quỳ hương cúng nước, cầu xin sống trong ngày đao binh, tao loạn ([56]) được sự che chở của Thầy, giữ thuần túy tu hành hướng về Hội Thánh, nghe lời người làm đầu trong địa phận đạo. Làm được vậy, trăm sự khó khăn cũng giảm tám, chín, mười phần mà thiện khí ([57]) cũng làm cho dịu bớt sự đau khổ của đồng bào. Ơn điển đến nhà mình và cả cho thiên hạ.
Về phần đạo pháp: Giữa Hội Thánh với nhau
([58]) nên khế đồng tâm nguyện.([59]) Tuy mỗi người mỗi
việc, nhưng việc nào cũng không trái nhau; có vậy mới chia nhau mà làm xong,
giải quyết xong cho mối đạo.
Về việc tu dưỡng của các hiền hữu: Theo thánh ý, cũng
đồng thể ([60]) trên phương pháp xây
dựng cơ sở theo quy tắc tâm truyền.([61])
Song người hướng đạo ở đâu,
làm gì cũng không cách biệt nhau. Việc làm là việc chung, không để một người mà
chia nhau nhiều người, theo lời Đức Lý Giáo Tông đã dạy: Mỗi giống mỗi loài có
một đặc tính và một sở năng đặc biệt.([62])
(. . .)
NGÂM
Một vài lời gọi tiên tri ([63])
Mong chờ nội bộ một kỳ đồng nhân ([64])
Muốn cho gội được nhiều ân ([65])
Lấy khiêm ([66]) làm pháp tu chân ([67]) hội ([68]) này
Chúng ta nhất luật ([69]) tin Thầy
Giã nhau xin nhớ,([70]) cung mây tôi về.
([1]) bảo dân 保民 (protecting people): Bảo vệ người dân. – dưỡng thiện 養善 (nourishing goodness): Nuôi dưỡng điều tốt lành. – bảo dân dưỡng thiện: Bảo vệ và nuôi dưỡng thiện dân. (Tín đồ còn được Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài gọi là thiện dân 善民. Gia đình của thiện dân gọi là thiện gia 善家.)
([2]) nguơn hạ: Hạ nguơn (nguyên) 下元: Thời kỳ cuối cùng của một đại chu kỳ. Tam nguơn gồm có: 1/ Thượng nguơn (nguơn thượng đức, nguơn tạo
hóa, the first kalpa); 2/ Trung nguơn (nguơn thượng lực, nguơn
tranh đấu, the second kalpa); 3/ Hạ nguơn (nguơn điêu tàn, nguơn tái tạo
để trở lại thượng nguơn, the last kalpa).
Hạ nguơn cũng gọi là hạ nguơn mạt kiếp 下元 末劫 hay mạt pháp 末法.
([5]) Bài
thơ xưng danh quán thủ là Bảo Nguơn Chơn Tiên. Tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày
15-01 Mậu Tuất (Thứ Ba 04-3-1958), Đức Chí Tôn phong tiền bối Trần Nguyên Chí
(1914-1957) quả vị Trung Đẳng Huyền Cơ
Chưởng Pháp Hộ Đạo Thiên Quân 中等玄機 掌法護道天君, hay Bảo Nguơn Khai Huyền Cơ Tuyển Tiên 保元開 玄機選仙, cũng
là Bảo Nguơn Chơn Tiên 保元真仙. – Câu
thơ chót ý nói: Đạo pháp Thần Tiên vốn nhiệm mầu; con người hãy rán suy tư tìm
học cho thấu đáo.
([9]) Bản (Bổn) Quân 本君 (a formal form of addressing oneself): Bản cũng nói là Bổn. Đức
Bảo Nguơn Chơn Tiên cũng là Hộ Đạo Thiên Quân nên Ngài tự xưng Bản/Bổn Quân. Một vị Thánh thì xưng Bản/Bổn Thánh 本聖. Một vị Thần thì xưng
Bản/Bổn Thần 本神. Một vị vương thì
xưng Bản/Bổn Vương 本王. Một vị quan chức thì
xưng Bản/Bổn Chức 本職. Đời Tống (Trung Hoa)
ông Bao Công cai quản phủ Khai Phong nên thường tự xưng Bản/Bổn Phủ 本府. Ngày xưa, một sứ thần nói với người nước khác thì gọi nước mình
là Bản/Bổn Quốc 本國 (nước của tôi). Đức
Bảo Pháp Chơn Quân Huỳnh Chơn khi giáng cơ, nói với đàn em thì xưng Bản/Bổn Huynh 本兄.
([10]) không lường, khôn lường (mạc trắc 莫測: unpredictable):
Khó mà đoán trước, không thể tính trước được (nói về điều xấu).
([11]) phương
sách 方策
(strategy, policy, general plan): Phương lược 方略, sách lược 策略, chiến thuật 戰術, chính sách, kế hoạch lớn.
([14]) loạn
mười phương (thập phương loạn lạc 十方亂落: fighting and disorder everywhere):
Khắp nơi loạn lạc.
([15]) Câu này ý nói:
Thời nhiễu nhương, loạn lạc, nhiều phái phe nổi lên chiêu dụ người dân, cạnh
tranh lẫn nhau, chẳng ai nể nang hay nhường nhịn ai.
([21]) sơ phục 初伏:
Tương ứng mười ngày giữa (trung tuần 中旬)
tháng Bảy dương lịch (middle ten days of July).
Ngày đầu tiên của mười ngày sơ phục cũng gọi là ngày sơ phục (the first day
of the middle ten days of July). Đối chiếu với hai
mươi bốn tiết khí 節氣 (the twenty-four divisions of the solar year)
thì sơ phục ở khoảng giữa tiết Tiểu Thử
小暑 (Lesser Heat, Slight Heat: nóng ít). Tiểu
Thử là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 7 hay 8 tháng Bảy và kết thúc
vào khoảng ngày 22 hay 23 tháng Bảy dương lịch.
([25]) đạo
tràng, đạo trường 道場 (religious premises):
Chỗ tu học, nơi sinh hoạt tôn giáo (chùa, thất, thánh đường, tu viện…).
([27]) cũng được Đức
Giáo Tông truyền dạy như thế mà làm: Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên tuân
theo thánh ý Đức Lý Giáo Tông mà truyền đạt phương pháp bảo an Giáo Hội.
([28]) phong ba 風波 (wind and waves, fig., disturbance,
restlessness): Gió và sóng; nghĩa bóng là sự rối ren, không yên ổn.
([29]) Câu này ý nói: Bánh lái con
tàu (đà 舵: rudder) tuy nhỏ nhưng đổi
hướng đi được cả chiếc tàu to lớn hơn nó gấp bội phần.
([30]) Câu này ý nói: Trái cân (kiếp
mã 砝碼,
pháp mã 法碼: weight) tuy nhỏ nhưng cân được cả hằng ngàn ký.
([31]) thiện căn 善根 (root of goodness): Căn lành, cái gốc rễ
tốt lành. Người có thiện căn thấy cái ác thì không chịu nổi (bất nhẫn 不忍), nghe nói đến Trời Phật thì tin kính. – đám thiện căn: Các tín đồ Cao Đài.
([33]) quên thân (vong thân 忘身): 1/
Bất cố thân 不顧身, không quan tâm tới
bản thân (neglecting oneself). 2/ Vong
kỷ 忘己, vong ngã 忘我 (oblivious
to oneself, selfless), quên mình, quên cái ta của mình.
([38]) giáo tên (spear and arrow, fig., military force): Ngọn giáo và mũi tên, ý nói
vũ lực (súng đạn, giáo gươm).
([40]) chính trung 正中 (neutral,
unbiased): Giữ lòng ngay chánh theo đúng Đạo Trời, không nghiêng về bên nào,
không ngả theo phe nào.
([41]) thanh tịnh
清淨
(purified and tranquil): Không phiền não (tham dục, mê lầm), không ô
nhiễm, không chấp trước, không dính mắc vào bất cứ điều gì.
([44]) thiện nam tín nữ 善男信女 (male and female
devotees of a religion): Người nam và nữ có đức tin mạnh mẽ vào một tôn
giáo.
([46]) chủ trì 主持 (taking
charge of sth, managing sth, directing sth): Quản lý, quản trị, điều hành,
coi sóc.
([47]) vạn nhất 萬一 (one
ten-thousandth; fig., just in case,
if by any chance): Một phần mười ngàn; trong muôn một, ý nói rất khó xảy ra
tuy vẫn có thể xảy ra.
([49]) lúc đông chinh tây chiến chưa nên chọn chủ
lựa thầy: Giảng rõ hai chữ chính
trung trong câu thơ ở trên: Chính
trung, thanh tịnh, pháp làm nên.
([50]) có tiểu nhân mới thành quân tử: Lúc loạn lạc nhiễu nhương (đông chinh tây chiến) chưa rõ
mặt anh hùng, đến khi tiểu nhân lộ mặt thì mới biết ai là quân tử.
([53]) máy mầu: Cơ mầu, huyền cơ 玄機 (mysterious
principles), những nguyên lý mầu nhiệm. Đồng nghĩa Thiên ý 天意, Thiên cơ 天機, máy Tạo.
([54]) lúc này nên luôn luôn thanh tịnh: Nhắc
lại hai chữ thanh tịnh trong câu thơ
ở trên: Chính trung, thanh tịnh,
pháp làm nên.
([57]) thiện khí 善氣 (air of goodness):
Bầu khí tốt lành bao phủ một khu vực (nhờ những người sống nơi đó biết làm lành
lánh dữ).
([61]) tâm truyền 心傳: 1/ Truyền dạy nhau không dùng văn tự, sách vở (direct transmission from mind to mind, as
contrasted with the written word). 2/ Nói tắt nội giáo tâm truyền 內教心傳 (esotericism), tức là công phu
功夫, tu tịnh, hay tịnh luyện
淨煉 (practising inner self-cultivation).
([62]) Mỗi giống mỗi loài có một đặc tính và một
sở năng đặc biệt: Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên tóm tắt thánh ý Đức Lý Giáo Tông
dạy tại Trung Hưng Bửu Tòa ngày 22-11-1961: Các
vật chia ra giống chạy giống bò, giống bay giống nhảy, thứ trứng thứ con. Một
lúc tượng thành, có vật vừa lọt bào thai đã bay, đi hay đứng; cũng có loài phải
chờ cho đủ cánh đủ lông. / Vật vật khác hình khác thể thì cũng phải khác tính
khác tình. Tính tình, hình thể làm sao đã in khuôn cho mỗi giống. / Vậy giữa các
hiền cũng nên suy gẫm lời Già mà học lấy tánh bao dung của Trời rộng mênh mông,
trên che dưới chở. (Xem lại bài 6 trong sách này.)
([64]) đồng nhân 同 人 (in
harmony with one another): Hòa đồng với nhau, không chia rẽ, không tranh
chấp. Cũng có thể Đức Bảo Nguơn Chơn Tiên muốn nhắc đến quẻ Dịch thứ mười ba (Thiên Hỏa Đồng Nhân 天火同人) với
ý nghĩa chính là sự đồng tâm hòa hiệp giữa người và người.
([65]) gội được nhiều ân (being showered with lots of blessings): Nhận nhiều ơn huệ Trời ban
xuống, chan chứa đằm đìa như được tắm gội.
([66]) khiêm 謙 (modest): Khiêm nhượng 謙讓, nhún nhường, hạ mình. Sử Ký史記, Nhạc
Thư 樂書 chép: Quân tử dĩ khiêm thối vi lễ. 君子以謙退為禮. Người quân tử lấy khiêm nhường
làm lễ. (The superior man regards modesty
as the principle of propriety.)
Trong Phúc Âm (Gio-an 13:4-5), Chúa Giê-su tự tay rửa chân cho các môn đệ rồi dùng chính khăn thắt lưng của Chúa mà lau, thì Chúa đang lấy thân mình làm gương (thân giáo 身教) cho môn đệ về đức khiêm.