Thứ Hai, 22 tháng 2, 2021

NỘI DUNG / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 


ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo
Tìm hiểu
THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG
năm Tân Sửu, Quý Mão (1960, 1963)
Chú thíchHUỆ KHẢI ─ Hiệu đính: LÊ ANH MINH
Giới thiệu: Giáo Sư THƯỢNG VĂN THANH
Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế (Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài)
In lần thứ nhất

Nhà xuất bản HỒNG ĐỨC - Hà Nội 2021 


Hình vẽ trên bìa 1:

Ba cổ pháp trên nóc Cửu Trùng Đài Trung Hưng Bửu Tòa,

do CÚC LƯU (thánh tịnh Thanh Quang) vẽ lại.





NỘI DUNG

LỜI GIỚI THIỆU. Giáo Sư Thượng Văn Thanh
THÁNH TRUYỀN TRUNG HƯNG - NĂM TÂN SỬU, QUÝ MÃO  (1961, 1963)

1. NGÀY XUÂN VUI MỘT CHỮ HÒA. Trường Xuân Phật Địa

2. TU RỒI SỨ MẠNG LẠI TRAOĐạo Đức Chơn Tiên

3. ĐƯỜNG DÀI PHẢI LẬP CHÍ. Bảo Thọ Thánh Nương

3b. PHỤ ĐÍNH: Đạt nhân quân tử

4. MUỐN GIẢI THOÁT PHẢI CÓ CHÍ LÀM PHẬT LÀM TỔQuan Âm Bồ Tát, Vô Cực Từ Tôn

5. LO SỬA TRAU CHO THÀNH CON NGƯỜI GIẢI THOÁT. Bảo Thọ Thánh Nương

5b. PHỤ ĐÍNH: Tư tư thiết thiết

6. NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO ĐÓNG VAI TƯỚNG SOÁI CỦA THẦYThái Bạch Kim Tinh

7. MỘT PHƯƠNG PHÁP BẢO AN GIÁO HỘI. Bảo Nguơn Chơn Tiên

8. ĐỜI CHƯA YÊN, ĐẠO ĐÂU THÀNH ĐƯỢC. Lý Thái Bạch, Ngọc Hoàng Thượng Đế

9. HỘI THÁNH CHỈ NÊN DỐC CẢ TOÀN LỰC VÀO NHỮNG ĐIỀU HỆ TRỌNG. Giáo Tông Thái Bạch

10. CHO TRÒN SỨ MẠNG TRUNG HƯNG. Ngọc Hoàng Thượng Đế

LỜI GIỚI THIỆU / / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 




LỜI GIỚI THIỆU 


Đối với Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thánh giáo rất quan trọng. Ơn Trên dùng thánh giáo để khai Đạo. Các Thiên ân hướng đạo dùng thánh giáo để truyền giảng. Và nhân sinh đồ chúng nhờ thánh giáo để tu học, sống đạo.

Vốn có những khác nhau về nhiều mặt nên người đạo đến với thánh giáo cũng bằng nhiều cách không giống nhau. Có người chỉ rung đùi ngâm nga. Có người cặm cụi chép tay. Có người đem thánh giáo, thánh thi chuyển thành nhạc đạo...

Rất phổ biến là đa số người đạo đã chiêm nghiệm và sống với thánh giáo. Chẳng hạn, người làm đạo khi bị chê bai, trách móc thì nghĩ một cách tổng quát đến hai câu thánh thi của Đức Bạch Phụng Đồng Tử:
Lấm đầu bao quản thân lươn
Gìn lòng thanh bạch noi gương thánh hiền.([1])
Và có vẻ sâu hơn thì vận dụng hai câu thánh thi của Đức Quảng Đức Chơn Tiên:
Cao Đài là cái đài cao
Vượt lên tất cả đón rào ngăn che.([2])
Như vậy, thánh giáo là thức ăn tinh thần thông dụng cho người đạo. Đối với tín hữu Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài thì nguồn cung cấp thức ăn tinh thần quý báu đó chính là bộ Thánh Truyền Trung Hưng, bao gồm những thánh giáo được các Đấng thiêng liêng giáng tại nhiều thánh sở để dạy về cơ đạo miền Trung kể từ khi Đạo Thầy truyền về đây năm Giáp Tuất (1934) cho đến cuối thế kỷ trước. Với thời gian dài hơn sáu mươi năm như vậy, bộ Thánh Truyền Trung Hưng in gần đây đã kết tập được ba trăm ba mươi mốt bài (nhưng ắt vẫn còn thiếu một số thánh giáo).
Hấp thụ chất dinh dưỡng trong thức ăn tinh thần nói trên (tức Thánh Truyền Trung Hưng) thường có những cái khó. Tại sao khó và khó như thế nào? Điều đó tùy thuộc vào yêu cầu sử dụng và căn trí mỗi người.
Một trong những cái khó ấy là ngữ nghĩa; vì vậy, đạo huynh Huệ Khải đã phát tâm giúp giảm bớt cái khó này cho bổn đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài với loạt sách Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng (nhiều tập). Điều này cũng tự nhiên và dễ hiểu vì bấy lâu nay đạo huynh Huệ Khải vốn rất gần gũi với bổn đạo Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài.
Quyển Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng  Năm Tân Sửu, Quý Mão (1961, 1963) chúng ta đang có là một tập trong loạt sách ấy, gồm mười bài thánh giáo.
Ngoài phần giải nghĩa các từ khó, từ Việt cổ, thuật ngữ tôn giáo, thành ngữ và điển tích, v.v… sách còn có thêm phần chữ Nho và tiếng Anh nên rất cần cho cả thế hệ lớn tuổi và thế hệ trẻ ngày nay, lại có thể giúp ích cho những vị muốn dịch Thánh Truyền Trung Hưng ra ngoại ngữ... Những bài thánh giáo tiếp nhận qua trung gian đồng tử, truyền qua độc giả đến điển ký, rồi những người sao chép về sau, thường khó tránh các lỗi về chính tả, ngắt câu, viết hoa... Quan tâm hạn chế các lỗi này, giúp cho người đọc và góp sức với đồng đạo có nhu cầu vận dụng thánh giáo để viết bài, nói chuyện… là thiện ý của soạn giả.
Loạt sách tìm hiểu này nếu tiếp tục thực hiện cho đầy đủ từ bài thánh giáo đầu đến bài cuối sẽ là một công trình phụ trợ rất quý cho người mộ đạo hiếu học ham tu và nói riêng cho giới Phổ Tế.
Đạo huynh Huệ Khải qua các sách đã xuất bản cũng như nhiều bài viết trên các tạp chí, trong đạo và ngoài đời, thể hiện tác phong một người cầm bút có trách nhiệm đối với nhà Đạo và người đọc. Ưu điểm đáng quý ấy cùng với lòng nhiệt thành công quả và nỗi âu lo phụng đạo nơi đạo huynh Huệ Khải khiến tôi hoan hỷ giới thiệu Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng với quý huynh tỷ đồng đạo.
Ước mong việc làm này của đạo huynh Huệ Khải cùng với bao nhiêu hình thức công quả đa dạng được tiếp nối qua các thế hệ trước sau đều cùng chung sức tài bồi cho nhà Đạo được xương minh, xán lạn.
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài
Giáo Sư THƯỢNG VĂN THANH
Chưởng Quản Cơ Quan Phổ Tế



([1]) Thánh thất Trung Thành, 15-7 Mậu Dần (Thứ Tư 10-8-1938).
([2]) Tam Tông Miếu, 07-6 Tân Dậu (Thứ Tư, 08-7-1981).

KÝ HIỆU & VIẾT TẮT / / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 


 


KÝ HIỆU & VIẾT TẮT


/

thay thế cho chỗ phải xuống hàng

(. . .)

lược bớt chữ trong thánh giáo

[xyz]

chữ xyz được thêm vào cho rõ nghĩa

(?)

chưa chắc chắn, tồn nghi một giải thích

[Chúa]

thuật ngữ đạo Chúa

[cổ]

tiếng Việt cổ

fig.

figurative meaning

i.e.

id est, that is

sb

somebody

sth

something

Td

thí dụ



1. NGÀY XUÂN VUI MỘT CHỮ HÒA / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 

1. NGÀY XUÂN VUI MỘT CHỮ HÒA

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 01-01 Tân Sửu (Thứ Tư 15-02-1961)

TRƯỜNG SANH PHẬT ĐỊA ([1])

THI

TRƯỜNG đường biết sức ngựa ([2])

XUÂN ý suy bữa bữa ([3])

PHẬT nhật được tăng huy ([4])

ĐỊA bàn kim đã hứa.([5])

Địa chào mừng chư Thiên phong chức sắc, chức việc, toàn bộ nhân sinh một năm quyền pháp thịnh vượng.

Địa được lịnh Giáo Tông Đại Tiên lâm đàn khai cơ ([6]) phân bày lý đạo. Địa báo lịnh trước, có Quan Âm Nam Hải đến ban ơn cho toàn đạo. Vậy chư chức sắc ngồi cùng Địa nghe vài mẩu chuyện.

BÀI

Năm Tân Sửu thần ngưu ([7]) xuất hiện

Xuân Lạc Hồng cải thiện ([8]) đời dân

Lòng người giục giã duy tân ([9])

Đem đời về đạo ([10]) cho gần cho xinh.

Xuân đem lại mối tình hòa ái

Xuân gọi nhau trở lại cùng Thầy

Thung dung nhẹ bước đường mây ([11])

Lánh hồi điên đảo ([12]) đổi thay cuộc cờ.

Xuân mong mỏi đợi chờ cải quá ([13])

Cảm thông nhau đắp vá ([14]) lỗi lầm

Linh Sơn cùng bạn đồng tâm ([15])

Nên hư đóng cửa âm thầm nhủ khuyên.

Đừng để phải thất điên bát đảo ([16])

Đừng để cho nha trảo tổn thương ([17])

Sống còn trong kiếp vô thường

Làm sao thân phận an bường,([18]) tươi vui.

Giờ xuân nhủ nên xuôi mọi việc ([19])

Để lòng Thầy khỏi biệt cùng ta ([20])

Ngày xuân vui một chữ hòa ([21])

Có hòa mới vững nghiệp nhà dài lâu.

Xuân cậy sức con trâu nhổ cỏ

Phỡ ([22]) cồn cao lấy nó lôi cày

Lúa miêu ([23]) tươi tốt mỗi ngày

Siêng năng ta nó ([24]) ra tay mới rồi.

Năm nay, thiên can số tám, địa chi số hai. Tám nhằm chữ Tân, hai đúng chữ Sửu.([25]) Tân Sửu là ứng vào quẻ Địa Trạch Lâm.([26]) Thế đạo trong hồi mở mặt mà nội bộ chưa thuần, nên từ ngày khai cơ giáo pháp đã đổi xuống đổi lên, quyền pháp chưa minh định mà Lâm trở thành Tụy, Tụy lại làm Lâm ([27]) cũng là một điều nên xét.([28])

Theo thánh ý, năm Sửu là trâu. Trâu để cày, mà có trâu không đất, lấy đâu bỏ giống đặt mầm? Nên Địa cũng ứng thời hỗ tương thành tựu cho đúng chữ Trường Sanh của Địa.

Đã có giống lành gieo trên mặt đất thì theo đó cỏ cũng đầy nương.([29]) Vì vậy, trâu có nhiệm vụ phỡ đất khai nương, mà còn có bổn phận ăn cho sạch cỏ. Ngày nào còn cỏ thì trâu phải rảo khắp đồng bãi để trừ diệt. Nhưng ăn không hết, giậm không sạch, phải phỡ lật chôn giống cỏ lấn át lúa má, hại sự sanh sống của đời, thì kẻ nông phu cộng tác cùng trâu để hoa màu không hư hại.

Đây, Hội Thánh ta cũng vậy. Làm sao hoằng pháp lợi sanh?([30]) Làm sao cho thành sự nghiệp? Cả một sự dụng tâm([31]) của Địa để đặt cho Hội Thánh một chương trình.

Hội Thánh bình an đón Nam Hải Từ Hàng.([32]) Địa chào. Xin nhượng bút.

TIẾP ĐIỂN

THI

TỪ bi lân mẫn ([33]) mãi không phiền

HÀNG (hoằng) pháp độ người cũng chí chuyên ([34])

BỒ bặc ([35]) cho nhau chung sức lại

TÁT (Tác) thành cho Đạo ở chư hiền.

Chư hiền thanh tịnh nghĩ mà coi

Đừng để một ai phải thiệt thòi

Mới gọi đàn anh, người hướng đạo ([36])

Chết rồi hậu thế cũng còn soi.([37])

Soi lại lòng mình có trọn chưa

Chưa thì miễn thứ ([38]) kẻ không vừa ([39])

Vừa lòng bạn tác, thân thường tịnh

Ơn phước từ Trời rỉ rả mưa.

Mưa pháp mưa lành xuống thế gian

Xuống cho bốn biển được an toàn

Toàn người hướng đạo thân bồ tát

Thì chánh giáo ngày được mở mang.

BÀI

Mở mang xuân đến gặp thời

Chào chư Thiên mạng được Trời ủy trao.([40])

Mừng quốc nội đồng bào Hồng Lạc ([41])

Nương đà xuân tấn đạt duy tân ([42])

Mừng chung sanh chúng dưới trần

Mừng chung Giáo Hội xa gần gội ơn.

Ơn xuân tải ([43]) mau chân đón đợi

Đợi chờ nhau đi tới một đường

Chờ trên ban bố chủ trương

Chờ Thầy xuống thế mười phương một người.

Ráng vun bón cho tươi cây Đạo

Gắng sức lo hoài bão nhân sanh

Ngày mai chánh pháp được thành

Công trò, Thầy Mẹ cũng dành thưởng ban.

Giờ hiệp lại để toan để tính

Giờ phân ra ban lịnh rao truyền

Một nhà quyền pháp linh thiêng

Chờ khi Tứ Giáo ([44]) quy nguyên mới lành.([45])

Này Thiên ân đàn anh đàn chị

Đạo chinh nghiêng phải nghĩ sao đây

Trên ta còn hẳn có Thầy

Ngoài ta tai mắt đông đầy ngóng xem.

Phải giữ cho đừng lem mối Đạo

Phải dặn lòng ngay thảo cùng Thầy

Một ngày hoàn cảnh đủ đầy

Để cho trên dưới vui vầy cùng nhau.

Đừng trông lơ, ai đau chẳng biết

Đừng bất bình, thân thiết phải xa

Xúm cùng gìn giữ Bửu Tòa

Tảo thanh ([46]) cho sạch loài ma ẩn tàng.

Cầu chư hiền bình an lo Đạo

Cầu pháp quyền toàn hảo từ đây

Cầu cho đạo hữu vui vầy

Cầu chung các tỉnh thương Thầy thương nhau.

Bần Đạo nhìn mà đau mà khổ

Thấy nội tình nghiêng đổ, lòng thương

Hỏi ai thắng được phi thường ([47])

Phất cờ gióng trống mở đường nhau ra?

Thầy lắm lúc thiết tha căn dặn

Trò đòi phen ([48]) chẳng đặng khoan hòa

Bây giờ muôn sự xảy ra

Xảy ra thì phải nghe Ta dạy bày.

THI

Bày chỉ cho nhau một chữ lành

Chữ lành hiển hiện ở đàn anh

Anh còn sơ sót sao nên đạo

Đạo lớn bao trùm cả chúng sanh.

Chúng sanh đâu khỏi lọt Ơn Trời

Sống bởi ơn lành, một chút hơi

Hơi đã ngặt ngòi,([49]) thân khó nhọc

Chắc ai cũng muốn có Ơn Trời.

Ơn Trời đã ủy ([50]) ở Thiên ân

Ân ấy làm sao cập đến dân

Dân được cảm thông, dân kính trọng

Trọng người hướng đạo, Đạo canh tân.([51])

Tân Sửu xuân về với nước non

Về cho Giáo Hội để vuông tròn

Tròn người hướng đạo, nhân sinh ổn

Ổn định rồi thì xứng đạo con.([52])

Bần Đạo mong ở lòng ưu tư của con người có trọng trách, khéo léo làm sao giữ còn nhân sinh, nhân sinh khỏi lọt ngoài quyền pháp, mà nội bộ chớ để làm đôi.([53]) Phần đời khó khăn đứng trong tình thế gay gắt, đức tin yếu ớt, làm sao bảo an nội bộ, bảo vệ tín đồ.

Vậy Bần Đạo khuyên: Cùng nhau muốn cho công nghiệp còn, nền tảng vững, xa gần cần giữ một mối yêu thương. Mỗi người bất cứ địa vị nào cũng phải xét mình, nghĩ đến Đạo mà chọn một con đường đi tới, làm cho ổn định tình hình đôi bên, không cần phải gặp nhau mà cũng được tốt đẹp.

Đàn này Bần Đạo cho Phật Địa đến. Cũng thấy được thánh ý thì toàn đạo nói chung được ban ơn, được tự mình có một con đường xây dựng Đạo. Nếu ai ai cũng sẵn sàng có lòng thiết tha ưu tư vì Thầy vì Đạo thì qua thu đón cơ giáo hóa.

Bần Đạo chúc mừng một năm cố gắng thành tựu. Bần Đạo thăng.



([1]) Đức Trường Sanh Phật Địa xưng danh trong bài ngũ ngôn tứ tuyệt quán thủ là Trường Xuân Phật Địa. Trường xuân 長春 đồng nghĩa với trường sanh 長生, tức là sống lâu, bất tử (immortal).

([2]) trường đường: Đường trường, đường dài. – Trường đường biết sức ngựaTrường đồ tri mã lực. 長途知馬力. Đường dài mới biết sức ngựa. (Long distance tests a horse’s strength.)

([3]) Xuân ý suy bữa bữa (The significance of springtime should be pondered every day): Hằng ngày nên suy gẫm về ý nghĩa mùa xuân (hiểu theo đạo lý để áp dụng vào việc tu học và hành đạo). Xem Phụ Đính 1 cuối bài thánh giáo này.

([4]) Phật  (Buddha): Đấng giác ngộ (giác giả 覺者); nghĩa rộng là sự giác ngộ, minh triết, từ bi (enlightenment, wisdom, mercy). – nhật  (more and more): Càng ngày càng. Thí dụ, Mặc Tử viết: (G)ia nhật ích, thân nhật an, danh nhật vinh. 家日益身日安名日榮. Nhà ngày càng thịnh vượng, thân ngày càng an ổn, danh ngày càng hiển hách. – tăng huy 增暉 (increasing brightness): Tăng thêm sáng chói. – Phật nhật tăng huy 佛日增暉 (getting more and more wisdom and love)Càng ngày càng thêm minh triết; tình thương ngày càng tăng trưởng nhiều hơn.

([5]) địa bàn 地盤 (compass): La bàn 羅盤, kim chỉ nam (chỉ nam châm 指南針). – hứa (fixed): Hẹn, định sẵn. – Địa bàn kim đã hứa: Kim la bàn đã định sẵn phương hướng (vì kim này là nam châm, luôn xoay theo hướng bắc-nam). Nghĩa bóng: Đức Phật Địa nhắc các bậc hướng đạo rằng đường đi nước bước của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài đã được Ơn Trên vạch sẵn, hãy noi theo đó.

([6]) khai cơ, khai kê 開乩 (starting the new year’s first invocation seance): Khởi sự đàn cơ đầu tiên vào đầu năm mới.

([7]) thần ngưu 神牛 (wondrous buffalo): Trâu thần. Ý nói năm Sửu này có nhiều điều mầu nhiệm.

([8]) cải thiện 改善 (making sth better, improving sth): Sửa đổi cho tốt hơn.

([9]) duy tân 維新 (reforming sth): Đổi mới.

([10]) đem đời về đạo: Giúp người đời gần gũi cửa đạo, học đạo.

([11]) đường mây (journey of cloud; fig., self-cultivation journey): Vân trình 雲程, đường tu.

([12]) điên đảo 顛倒 (chaotic): Xáo trộn, khuấy lộn, tráo trở.

([13]) cải quá 改過 (correcting faults): Sửa đổi lỗi lầm.

([14]) đắp vá (patching sth up): Hàn gắn những sứt mẻ.

([15]) bạn đồng tâmĐồng tâm hữu 同心友, bạn cùng chí hướng, tức là đồng đạo (coreligionist). – Linh Sơn: Xem Phụ Đính 2 cuối bài thánh giáo này.

([16]) thất điên bát đảo 七顛八倒: 1/ Lộn xộn, bừa bãi, lung tung (disordered and in a mess; all mixed up and chaotic). 2/ Hoảng loạn (panicking).

([17]) nha Nha môn 牙門 (衙門), cửa quan, cơ quan công quyền. trảo Trảo nha 爪牙, tay sai của kẻ quyền thế (henchmen); như sai nha 差衙, tay chân, thuộc hạ kẻ làm quan. Td: Một ngày lạ thói sai nha / Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền. (Kiều) – Đừng để cho nha trảo tổn thương: Đừng đem việc trong đạo ra kiện thưa nơi cửa công quyền để khỏi bị luật đời làm tổn thương 損傷 (harming), hư mất tình đồng đạo, làm xấu danh Thầy danh Đạo.

([18]) an bường: An bình, bình an 平安 (at peace, safe and sound).

([19]) nên xuôi mọi việc (Everything should be let go smoothly): Nên làm cho mọi việc được suôn sẻ, trôi chảy, không trắc trở.

([20]) khỏi biệt cùng ta: Khỏi cách xa (cách biệt 隔別) chúng ta.

([21]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([22]) phỡ (breaking up sth): Vỡ (đất).

([23]) lúa miêu (rice seedlings): Hòa miêu 禾苗, lúa non, lúa mới cấy.

([24]) ta nó: Ta và nó, ta và trâu.

([25]) thiên canThập thiên can 十天干 (the ten heavenly stems), gồm mười can là Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý . Can thứ tám là Tân. – địa chiThập nhị địa chi 十二地支 (the twelve earthly branches), gồm mười hai chi là  Sửu Dần Mão Thìn Tỵ Ngọ Vị (MùiThân Dậu Tuất Hợi . Chi thứ hai là Sửu.

([26]) Bát quái (tiên thiên) gồm: 1 Càn, 2 Đoài, 3 Ly, 4 Chấn, 5 Tốn, 6 Khảm, 7 Cấn, 8 Khôn. Số 8 là Khôn (Địa) và số 2 là Đoài (Trạch); do đó, 8-2 (Tân Sửu) là quẻ Địa Trạch Lâm.

([27]) Địa Trạch Lâm  (quẻ Dịch 19) gồm ngoại quái Khôn, nội quái Đoài. khi đổi chỗ (hoán vị 換位) nội quái và ngoại quái thì thành Trạch Địa Tụy  (quẻ Dịch 45) gồm ngoại quái Đoài, nội quái Khôn.

([28]) Xem Phụ Đính 3 cuối bài thánh giáo này.

([29]) nương: 1/ Đất trồng trọt trên đồi núi. 2/ Ở đây hiểu là ruộng nương nói chung.

([30]) hoằng pháp lợi sanh 弘法利生 (spreading dharma to benefit sentient beings): Rộng truyền đạo lý để giúp ích chúng sanh.

([31]) dụng tâm 用心 (intention): Chủ ý, chủ định.

([32]) Từ Hàng Bồ Tát 慈 航 菩 薩 (Mercy Boat Bodhisattva): Cũng là Đức Quan Âm Bồ Tát 觀音菩薩 (Avalokiteśvara Bodhisattva).

([33]) lân mẫn 憐愍 (pitying sb, feeling pity for sb): Thương xót.

([34]) chí chuyên 至專 (completely focusing on sth): Hết sức tập trung vào việc gì.

([35]) bồ bặc 匍匐: Cúi rạp người xuống (bowing down); nghĩa rộng là hạ mình, nhún nhường (humble, modest). – Bồ bặc cho nhau chung sức lại: Cùng nhau nhún nhường, đoàn kết hành đạo.

([36]) hướng đạo (hướng đạo giả 向導者spiritual leader; those who lead their coreligionists): Người dẫn dắt đạo hữu.

([37]) soi (seeing a good example): Soi gương, nhìn thấy gương sáng.

([38]) miễn thứ 免恕 (forgiving sb): Tha thứ.

([39]) không vừa (dissatisfying, displeasing): Không vừa lòng mình, khiến mình bất bình.

([40]) ủy trao (entrusting sb): Ủy , giao phó.

([41]) Hồng Lạc: Theo huyền sử nước Nam, họ Hồng Bàng (Hồng Bàng thị 鴻龐氏) bắt đầu từ Kinh Dương Vương 涇陽王. Kinh Dương Vương và Long Nữ 龍女 sinh ra Sùng Lãm 崇纜. Sùng Lãm xưng là Lạc Long Quân 龍君. Do đó, người Việt xưng mình là dòng giống Hồng Lạc   hay Lạc Hồng  .

([42]) duy tân 維新 (reforming sth, modernising sth): Đổi mới.

([43]) tải  (supporting sth): Nâng đỡ.

([44]) Tứ Giáo 四教 (the Four Teachings): Tam Giáo (Nho, Tiên, Phật: the Three Teachings, i.e., Confucianism, Daoism, Buddhism) và đạo Chúa (Christianity, Jesusism).

([45]) mới lành: Mới tốt đẹp.

([46]) tảo thanh 掃清 (getting rid of sth): Quét sạch hết, trừ bỏ hết.

([47]) thắng được phi thường: Chiến thắng một cách phi thường.

([48]) đòi phen (several times): [cổ] Nhiều phen, lắm lần, nhiều khi.

([49]) ngặt ngòi (serious): Ngặt nghèo, không còn an toàn.

([50]) ủy  (entrusting sb): Ủy trao, giao phó.

([51]) canh tân 更新 (renovating sth): Đổi mới.

([52]) đạo con: Đạo làm con cái của Thầy Mẹ.

([53]) làm đôi (breaking in two): Phân hai, chia rẽ.

 

Huệ Khải chú thích & Lê Anh Minh hiệu đính