Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2021

6. NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO ĐÓNG VAI TƯỚNG SOÁI CỦA THẦY / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 

6. NGƯỜI HƯỚNG ĐẠO ĐÓNG VAI TƯỚNG SOÁI CỦA THẦY

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 15-10 Tân Sửu (Thứ Tư 22-11-1961)

THI

THÁI hòa một khí chống càn khôn ([1])

BẠCH hắc hai nghi ([2]) để bảo tồn

KIM thạch dặn ai lòng đạo đức ([3])

TINH thần, nhật nguyệt chiếu thiên côn.([4])

Lão chào chư chức sắc Lưỡng Đài. Chào chư đạo tâm nam nữ.

Ba lăm năm chẵn ([5]) trải thăng trầm

Thành bại vì đâu, bởi tại tâm

Dẫu thế một phen toan cứu chữa ([6])

Có ngày thịnh vượng, có tri âm.

Chư liệt vị và đạo tâm ngồi.

Năm nay Đạo Trời vào buổi hạ nguơn đã vượt theo thời gian ba mươi sáu năm,([7]) tưởng cũng một việc đáng mừng. Nếu không bởi tay Trời lòng Thánh thì khó bề đứng vững mà chiếm được một địa vị nơi cõi trần lao ([8]) này.

Buổi đời rơi xuống đến ngày hạ nguơn mạt tận, lòng người trôi theo nhiều kiếp tội tình, mà bản thể hồn nhiên([10]) đã nhuộm màu ô trược.([11]) Nên mấy người ([12]) buông lợi rời danh, dừng bước theo mồi vật chất mà hồi tỉnh thiện tâm!

Khi lòng đã thâm nhập thế tình ([13]) mới ghét lẽ phải, mến điều trái, hóa cho nên cõi sống khô tàn, giống lành ([14]) khó vững. Nếu không một phen khử ám hồi minh ([15]) thì có ngày cảnh âm u, người người tê liệt. Vì vậy mới thấy ở thế gian ít người được an toàn một sớm một chiều,([16]) còn đâu nói đến lòng người đổi thay, thoạt mê thoạt tỉnh.

Thế nên Thầy cũng rộng lòng từ bi, muốn đem sự sống che trùm, muốn lấy thương yêu bao bọc, không để cho một vật hữu vi nào hoại diệt linh hồn; dầu khó dầu dễ, dẫu lâu hay mau cũng quyết đưa cõi đời, quyết độ loài người cho đến nơi thành tựu an lạc. Vậy thì người hướng đạo ([17]) phải sớm giác ngộ, thể theo ý Trời để chuyển hóa quần linh ra ngoài cảnh âm mê, thoát khỏi nạn máu xương thê thiết.([18])

Buổi đời cộng nghiệp trả trả vay vay, một vốn bốn lời,([19]) số số căn căn ([20]) biết sao mà tránh. Nên Lão để lời khuyên [chư] hướng đạo cũng như nam nữ đạo tâm, sống trong lúc đông tây giao chiến, nam bắc họa tai phải thế nào, đừng để ngọn sóng bất bình ([21]) cuốn đẩy bản năng ([22]) ra ngoài khơi vạn khổ. Nếu mãi tâm móng động,([23]) nhân khi gió ác cảm thổi bay ra chiến địa, nòi giống tương tàn ([24]) mà ơn phước Tam Kỳ khó trông lai phục.([25])

Giờ đây, Lão cũng thể lòng ([26]) Thầy mà đồng nhất sự thương yêu để chờ một ngày lai phục.

Lão cũng nghĩ rằng nơi thiên không ([27]) muôn vạn quốc độ,([28]) Thần linh đôi lúc cũng có lắm khối chơn nguyên tu chưa tận diệt quần âm ([29]) mà tham vọng trôi đến cõi trần. Cũng có kẻ giác tỉnh nương giữ pháp thân trở về Thiên quốc. Cũng còn lắm người vì vật dục ám mờ mà phải lăn trôi theo đường lục đạo,([30]) có khi làm quân tử đạt nhân,([31]) có hồi cũng làm ma làm quỷ, thì trách chi người không giác không mê, không ma không Phật. Mặc dù Phật Phật ma ma, miễn sao đừng chối ([32]) tính người làm ác, biết ngăn lẽ ác mà về với lẽ phải đường lành. Nếu chẳng chút ăn năn, hễ đắm vào đâu thì chìm tới đó.

Song người Thiên ân không nên lấy cớ ([33]) mà dung dưỡng tính tình, phải bảo vệ lấy nguyên căn, bảo tồn lấy nền chánh pháp.

Nếu một khi lầm lỡ thì ngũ quan ([34]) bế tắc, mà quyền pháp của Đạo cũng [bị] rẻ rúng lu mờ thì nên bình tĩnh mà suy để chống đỡ lại tòa nhà quyền pháp, hầu đưa đạo tâm đến cõi an toàn, hầu ngăn chặn sự tấn công ồ ạt của mười phương ([35]) đến gieo họa cho loài người, mà nhất là đốt rụi thành trì Việt quốc.

Bổn phận người Thiên ân cứu thế, đại Thiên ([36]) hành sự trong lúc này, mà cũng là bổn phận người dân phải yêu nòi thương giống, phải lo bảo vệ xã tắc sơn hà, bên đạo bên đời. Đó là con đường trung đạo.

Song nên hiểu người hay vật hữu sanh,([37]) mỗi cá thể ([38]) cũng chịu thọ bẩm nơi Trời một đoạn nguyên khí, chịu tinh cha huyết mẹ mà thành hình. Các vật chia ra giống chạy giống bò, giống bay giống nhảy, thứ trứng thứ con. Một lúc tượng thành, có vật vừa lọt bào thai đã bay, đi hay đứng; cũng có loài phải chờ cho đủ cánh đủ lông. Mặc dù chậm đến bao nhiêu hay mau được chừng nào, vật nào cũng chịu sự nuôi nấng trông nom của mẹ.

Vật vật khác hình khác thể thì cũng phải khác tính khác tình. Tính tình, hình thể làm sao đã in khuôn cho mỗi giống. Miễn sao giống nào cũng giữ được bản tính nguyên thủy mà về với nguyên sơ.

Vậy giữa các hiền cũng nên suy gẫm lời Già ([39]) mà học lấy tánh bao dung của Trời rộng mênh mông, trên che dưới chở. Được vậy thì nấc thang thiên vị ([40]) chỗ nào cũng xứng mặt đáng người, chỗ nào cũng được tiêu biểu là người của Thượng Đế, cũng để làm gương cho xa gần trông đến. Có vậy, người hướng đạo mới đóng vai tướng soái của Thầy,([41]) mới xứng trong tam tài đồng thể.([42])

Đây, Lão nói về quyền pháp. Các hiền coi đi coi lại bao lời giáo hóa từ lâu và coi theo Tân Luật để thi hành.

Nói đến cùng, dầu có sai sót lỡ lầm đối với các hiền cũng còn có thể châm chước, song Thiêng Liêng là sự mực thước cân đo. Đã lập luật ra, dầu luật ấy không phải bởi Thầy mà Thầy đã chuẩn y, thì dầu quyền cao cả như Chí Tôn có đến đây cũng không vượt qua quyền pháp đó; thì Lão nhân danh một Giáo Tông Tam Kỳ Phổ Độ, phải chấp hành Thiên nhân quyền pháp, đâu dám cải canh.

Song, trong lúc cơ đạo chinh nghiêng cần được chỉnh đốn mà đặt vấn đề tương nhượng ([43]) lên trên. Trong lúc đức tin toàn đạo chưa tỏ, phải thể theo trình độ mà dắt dìu; nên Lão cũng thể theo lời cầu xin mà cho thành hình các cơ sở thánh thất và sự xây dựng nội bộ, sao tiện là xong. Mong sự đồng nhất ([44]) với nhau, để nghe bản Thiên thơ đọc trước ngày [kỷ niệm] ba mươi sáu năm khai Đạo.

Về việc trấn an quyền pháp cho toàn đạo thuộc về nội vụ, Lão không tiện nói ra đây. Còn sự làm Lão cũng không nhận là không công; song, làm phải được trên nguyên tắc thuần chân, thuần nhất để đi đúng pháp môn cứu thế lần này là vạn pháp đồng nhất hay Thiên nhân hiệp nhất mới không thấy màu sắc dị biệt,([45]) mới có sự thương yêu che chở.

Nay Lão gởi đến cho đạo hữu một món quà kỷ niệm ngày tam thập ngũ chu niên khai Đạo ([46]) là thuần túy đạo đức, duy nhất tinh thần, bảo tồn quyền pháp để tránh các sự họa gởi tai bay,([47]) để không chịu một trách nhiệm nào bởi sự gây họa cho dân tộc.

Thôi, mọi việc về hữu vi để hữu vi quyết định.

Về thánh thất, khi lập đủ phương tiện bảo dân,([48]) lập thành họ đạo, Lão sẽ ban hiệu ([49]) cũng không muộn.

Thôi, Lão chào. Chư Thiên ân và toàn đạo sống trong ơn Thầy để bảo vệ quyền pháp. Lão thăng.



([1]) Câu này ý nói: Khí thái hòa (do âm dương hòa hợp) chống đỡ (supporting) cho vũ trụ (càn khôn) ổn định, vững bền.thái hòa 太和 (grand harmony): 1/ Cũng như đại hòa 大和, sự hòa hiệp, hòa thuận rất mực, rất lớn. 2/ Khí do âm dương hòa hợp.

([2]) bạch hắc hai nghi (yin and yang): Âm (hắc) và dương (bạch).

([3]) Câu này ý nói: Dặn dò các môn sanh phải giữ lòng đạo đức bền chặt, không để hư mất. – kim thạch 金石 (gold and stone; fig., steadfast, stable): Vàng và đá. Vàng bền và đá cứng, ám chỉ sự bền vững, kiên cố, không thay đổi.

([4]) Câu này ý nói: [Lòng đạo đức của người tu] hãy sáng rỡ như mặt trời, mặt trăng, và tinh tú chiếu sáng bầu trời.tinh thần, nhật nguyệt 星辰日月 (stars, the sun, and the moon): Tinh tú (các vì sao), mặt trời, và mặt trăng. – thiên (sky): Bầu trời. – côn (bright, brilliant): Sáng rỡ.

([5]) ba lăm năm chẵn (exactly thirty-five years): Đạo Cao Đài khai minh tại chùa Thiền Lâm (Tây Ninh) ngày 15-10 Bính Dần (19-11-1926), và đàn cơ này lập ngày 15-10 Tân Sửu (22-11-1961); vậy là thời gian vừa tròn ba mươi lăm năm chẵn.

([6]) Câu này ý nói: Dẫu lòng người đổi dời như thế, Ơn Trên vẫn toan cứu chữa một lần nữa.

([7]) ba mươi sáu năm: Ý nói Đạo Trời đã bước vào năm đạo thứ ba mươi sáu.

([8]) trần lao 塵牢 (the world as compared to a prison): Lao tù cõi trần. Cảnh thế gian ràng buộc làm con người mất tự do (vì chủ nhơn ông bị lục dục, thất tình sai khiến), vì thế cõi trần ví như chốn lao tù.


([10]) hồn nhiên 渾然: Nghĩa theo chữ Hán là 完整不可分割 (hoàn chỉnh bất khả phân cát: complete and unable to be divided), tức là toàn vẹn và không thể phân chia hay cắt xẻ. Nhưng người Việt dùng hồn nhiên theo nghĩa khác. Hán Việt Tân T Điển (Sài Gòn: Nxb Khai Trí, 25-4-1974) của Nguyn Quc Hùng (1938-2003) gii thích hn nhiên là: “C như thế, không có gì khác c. Ch tính tình ging như lúc trẻ thơ. Vô tư, chân thành.” Vậy, hồn nhiên dịch là innocent. Cách giải thích của ông Nguyễn gợi nh li Chúa (Lu-ca 18:15-17): Người ta còn đem cả tr thơ đến vi Đức Giê-su, để Người đặt tay trên chúng. Thy vy, các môn đệ la ry chúng. Nhưng Đức Giê-su gi chúng li mà nói: “C để tr em đến vi Thy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là ca nhng ai ging như chúng. Thầy bo tht anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa vi tâm hn mt tr em, thì s chng được vào.

([11]) bản thể hồn nhiên đã nhuộm màu ô trược: Những chữ này gợi nhớ tới lời khuyên của Đức Thanh Lương Thần Nữ (Trung Hưng Bửu Tòa, 21-4-60): Chớ cho vật chất làm chìm linh quang.

([12]) mấy người: Chẳng có mấy người (not many people).

([13]) thế tình 世情 (worldly affairs, the ways of the world): Sự đời, thế sự, tình đời, thói đời.

([14]) giống lành (hảo chủng tử 種子: good seed): Mầm thiện Trời ban sẵn cho mỗi người. Biết tu thì mầm thiện lớn mạnh, vững bền; không biết tu thì mầm thiện hư hao, mất mát.

([15]) khử ám hồi minh 去暗回明 (removing ignorance and restoring wisdom): Trừ bỏ sự u tối, lấy lại sự sáng suốt.

([16]) một sớm một chiều (a short while): Thời gian ngắn ngủi.

([17]) người hướng đạo (hướng đạo giả 向導者: spiritual leader; those who lead their coreligionists): Người dẫn dắt đạo hữu.

([18]) thê thiết: Thê lương 淒涼thảm thiết 慘切; sầu não và đớn đau.

([19]) một vốn bốn lời: Cũng như nhất bản vạn lợi 一本萬利 (small capital, huge profit; putting in a little and getting a lot out: một vốn muôn lời), ý nói gieo nhân một thì gặt quả nhiều gấp bội lần.

([20]) số số căn căn: Căn số nối chuyền nhau không dứt. Căn là cội rễ, nền tảng (root, basis). Số số mệnh, số mạng 數命, số phận 數分, kiếp số 劫數 (predestined fate). Do căn lành (thiện căn 善根) mà có số mạng tốt; do căn ác (ác căn 惡根) mà số mạng xấu, đúng theo luật nhân quả báo ứng.

([21]) bất bình 不平 (indignant): Phẫn nộ, căm giận. – ngọn sóng bất bình (a wave of indignation): Lòng bất bình nổi lên dữ dội như sóng cuộn trào.

([22]) bản năng 本能 (instinct): Hành vi mang tính phản xạ tự nhiên, là xu hướng vốn có (bẩm sinh) để đáp trả lại một tác động từ bên ngoài hay một hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, khi bị mắng nhiếc, bản năng thúc đẩy người ta nổi giận và trả đũa ngay. Nếu hai bên không thể kiểm soát cơn giận, từ chỗ lời qua tiếng lại sẽ dẫn đến hành vi bạo lực gây hậu quả nghiêm trọng để rồi bị luật pháp trừng phạt, thì đó chính là “ngọn sóng bất bình cuốn đẩy bản năng ra ngoài khơi vạn khổ”. Nhưng nhờ học đạo và ý thức mạnh mẽ, người tu hành có thể kiềm chế bản năng, dằn cơn phẫn nộ.

([23]) mãi tâm móng động: Cứ mãi để lòng xáo động, không thanh tĩnh.

([24]) tương tàn 相殘 (slaughtering each other): Tàn sát, giết hại nhau.

([25]) lai phục 來復 (restoring sth): Vãn hồi, phục hồi, lấy lại.

([26]) thể lòng (depending on one’s wish): Tùy theo lòng, theo ý.

([27]) thiên không 天空 (sky): Bầu trời, không trung.

([28]) quốc độ 國土 (realm): Cõi, miền.

([29]) chưa tận diệt quần âm: Chưa thuần dương.

([30]) lục đạo 六道: Sáu đường luân hồi của chúng sanh, tùy theo những việc lành việc ác đã tạo gây trong kiếp sống. (Six kinds of rebirth in samsara that are undergone by sentient beings in accord with their good or evil actions carried out in their previous lifetime.) Lục đạo gồm: 1/ Thiên (devas: celestial beings, gods, hiểu theo Phật Giáo; không phải là Thượng Đế theo Nho, Lão, Cao Đài). 2/ A tu la 修羅 (asura). 3/ Nhơn (người: human). 4/ Địa ngục 地獄 (hell). 5/ Ngạ quỷ 餓鬼 (ma đói, quỷ đói: hungry ghost or demon). 6/ Súc sanh 畜生 (thú vật: animal). Ba đường trên (1, 2, 3) là ba đường lành (tam thiện đạo 三善道). Ba đường dưới (4, 5, 6) là ba đường dữ (tam ác đạo 三惡道).

([31]) quân tử đạt nhân: Xem Phụ Đính, bài 3 sách này.

([32]) chối (dismissing sth, rejecting sth): Chối bỏ.

([33]) lấy cớ (make an excuse for sth): Viện cớ.

([34]) ngũ quan 五官 (the five sense organs, i.e., eyes, ears, nose, tongue, and skin): Năm bộ phận của thân thể con người, gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, và da, giúp con người biết về bên ngoài, bằng cách nhìn, nghe, ngửi, nếm và sờ mó.

([35]) mười phương (thập phương 十方: everywhere): Khắp nơi.

([36]) đại Thiên 代天 (acting on behalf of Heaven): Thay Trời mà làm.

([37]) hữu sanh 有生 (having life): Có sự sống.

([38]) cá thể 個體 (individual): Một người hay một con vật.

([39]) Già: Lão. Đức Lý Giáo Tông tự xưng.

([40]) thiên vị 天位 (heavenly position): Chỗ (vị trí) trên cõi trời.

([41]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([42]) tam tài (the three powers) 三才: Ba ngôi trong vũ trụ là trời, đất, người (thiên, địa, nhân 天地人: heaven, earth, man). – tam tài đồng thể 三才同體: Hoằng Minh Tập 弘明集, quyển 4, có câu: Nhân phi thiên địa bất sinh. Thiên địa phi nhân bất linh. Tam tài đồng thể tương tu nhi thành giả dã. 人非天地不生. 天地非人不靈. 三才同體相須而成者也. (Người không có trời đất thì không sinh ra. Trời đất không có người thì không linh diệu. Tam tài đồng bản thể, cùng phối hợp nhau mà thành tựu vậy.) Ghi chú: Tương tu 相須: Cũng viết tương nhu 相需, cùng dựa nhau mà tồn tại (hỗ tương y tồn 互相依存), cùng phối hợp nhau (hỗ tương phối hợp 互相配合).

([43]) tương nhượng 相讓(yielding each other): Nhường nhau.

([44]) đồng nhất 同一 (unanimous): Đồng thuận nhất trí 同順一致, hoàn toàn đồng ý với nhau.

([45]) dị biệt 異別 (different): Khác xa nhau.

([46]) ngày tam thập ngũ chu niên khai Đạo (Cao Đài Giáo thành lập tam thập ngũ chu niên 高臺教成立三十五周年: the thirty-fifth anniversary of the founding of Caodaism): ngày kỷ niệm tròn ba mươi lăm năm khai Đạo.

([47]) họa gởi tai bay (phi lai hoạnh họa 飛來橫禍: sudden and unexpected disaster): Tai họa thình lình xảy ra cho người vô can.

([48]) bảo dân 保民 (protecting people): Bảo vệ người dân.

([49]) ban hiệu 頒號 (conferring a name): Ban cho tên gọi thánh thất.


HUỆ KHẢI chú thích - LÊ ANH MINH hiệu đính.