Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2021

10. CHO TRÒN SỨ MẠNG TRUNG HƯNG / Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng - Năm Tân Sửu & Quý Mão (1961 & 1963)

 

10. CHO TRÒN SỨ MẠNG TRUNG HƯNG

Thiên Lý Đàn (Sài Gòn)

ngày 10-8 Quý Mão (Thứ Sáu 27-9-1963)

TIẾP ĐIỂN

THI

NGỌC Kinh ([1]) đợi trẻ mấy mươi thu ([2])

HOÀNG Đạo ([3]) trông ra vẫn mịt mù

THƯỢNG trí ([4]) bởi chưa thông thánh trí

ĐẾ minh ([5]) chánh pháp rộng đường tu.

THẦY CÁC CON ([6])

Thầy mừng các con chức sắc Lưỡng Đài nam nữ. Thầy miễn lễ. Các con an tọa.

Trung thu này Thầy ban ơn lành các con chức sắc, chức việc Hành Chánh, Phổ Tế, Phước Thiện, Minh Tra, Lễ Sanh, Chánh Phó Trị Sự, Thông Sự, Ban Cai Quản và toàn đạo nam nữ các thánh thất, xã đạo.

Hôm nay Thầy giáng trần đem đến cho các con một niềm vui, một niềm tin với một niềm khích lệ để nhắc nhở các con bước đời còn lắm gai chông, cơ đạo còn nhiều khảo đảo. Các con hãy bình tâm, dõng mãnh hơn nữa. Hãy quên mình, nhẫn nhục, lấy tình thương vô biên chan hòa trong mọi cảnh mọi người để bảo tồn và xây dựng chánh pháp.

Các con thấy chưa? Hiểu ý Thầy chưa?

Hỡi các con nam nữ! Nếu có con nào ước mong Thầy phân minh đâu chánh đâu tà thì điều ấy không đáng cho Thầy phải nói và Thầy cũng nói nhiều rồi.([7])

Kìa các con! Mùa xuân ấm, mùa hạ nóng, mùa thu mát, mùa đông lạnh, cứ tuần tự diễn hành. Thuận với công lệ ([8]) ấy thì sinh tồn, trái lại thì tiêu diệt. Huống chi Thầy hằng nói Thầy là tình thương yêu, là lẽ công bình. Thương yêu, công bình là đất tự do cho điều chơn chánh phát triển và điều không chơn chánh cũng được sinh hoạt, nhưng kết cục chỉ có điều chơn chánh được trường tồn. Rồi các con sẽ thấy.

Hôm nay Thầy khuyên các con, dầu một ít đứa cũng không nên lời lại tiếng qua gây mầm chia rẽ nội bộ; vì chia rẽ là nguồn gốc của sự suy đồi.([9])

Hỡi các con nam nữ! Thầy đã đến với các con ba mươi tám năm rồi, cũng đã nói với các con nhiều rồi. Ngày nay nhìn xem cơ đạo đã tiến đến đâu, hay chỉ những trò ([10]) chia rẽ. Rồi mai đây, thu về sẽ diễn ra một mùa đông giá lạnh. Các con thấu chăng những nỗi thê lương, tan tác trong những đêm trường phong vũ ([11]) của đàn nhạn lạc bầy?([12]) Các con nghe đây! Đạo pháp, giới hạnh là chiếc áo ngự hàn.([13]) Hãy cố giữ để gặp Thầy trong ngày xuân xán lạn.([14])

Hỡi các con nữ phái! Thầy rất thương cho các con số phận chịu thiệt thòi. Không riêng nơi này mà những nơi khác cũng thế. Thầy đến nâng đỡ các con nhưng các con thiếu sức, thiếu người, không đủ đảm đang ([15]) quyền pháp Thầy trao, danh vị ([16]) Thầy đã lập. Hãy cố gắng rèn luyện đức hạnh, dìu dắt chị em, lập thêm những công nghiệp. Tùy số lượng Thầy sẽ ban thưởng. Rồi ngày mai Thầy sẽ vận chuyển chị em các con ở những nơi khác về chung lo cơ đạo.

Hỡi các con chức sắc! Ngày nay cơ đạo đến thời kỳ xây dựng hơn là giáo huấn, nên Lý Giáo Tông đã dạy nhiều. Các con hãy cố gắng thực hiện lần cho kỳ được.

Việc xây dựng một Giáo Hội, công nghiệp trăm năm, ngàn năm chớ nào phải một ngày một buổi. Đừng lạc quan theo tưởng tượng, bày ra cơ quan này, tổ chức nọ rồi bỏ dở nửa đường cũng như nhiều nơi khác, làm mất uy tín Hội Thánh, đem đến cho bổn đạo sự mất đức tin. Các con hãy cố gắng lên!

THI

Gắng lên, Thầy sẽ dắt con lên

Sử Đạo ngàn thu rạng tuổi tên

Chí cả muốn toan nên nghiệp cả

Từ bi, nhẫn nhục nhớ đừng quên.

BÀI

Nhớ đừng quên lời Thầy dạy bảo

Dắt dìu nhau gánh đạo Trung Hưng

Con nên, Thầy rất vui mừng

Con hư, Thầy cũng não lòng vì con.

Mấy mươi năm lời son tiếng ngọc

Mấy mươi năm khi khóc khi cười

Vì con Thầy xuống cõi đời

Vì con Thầy chịu lắm lời thị phi.([17])

Nghĩ thương con gian nguy chẳng nệ

Nghĩ thương con trần thế dãi dầu

Đời còn trong cuộc bể dâu ([18])

Đạo còn nhiều nỗi cơ cầu ([19]) mới xong.

Hỡi các con! Dốc lòng chạm dạ

Hỡi các con! Chí cả vẫy vùng

Ra tay quét sạch bụi hồng ([20])

Làm cho danh Đạo ngoài trong ([21]) rạng ngời.

Con làm sao sử đời ghi chép

Con làm sao quyền pháp nhiệm mầu

Đạo mầu rải khắp đâu đâu

Nơi này rồi sẽ năm châu sau này.([22])

Chí hộc hồng ([23]) toan bay muôn dặm

Sức kình ngư ([24]) toan tắm ngàn khơi

Sá chi một góc phương trời

Mà bày chi phái cho đời mỉa mai.

Con làm sao đáng tay hướng đạo ([25])

Con làm sao đào tạo nhân tài

Trông về cơ đạo tương lai

Mở mang cần có nhiều tay siêu quần.([26])

Con làm sao Nam Trung hiệp lại

Con làm sao chi phái đồng lòng

Cho tròn sứ mạng trung hưng ([27])

Mở trang sử Đạo lẫy lừng danh con.

Thương nữ phái hãy còn lận đận

Phận quần thoa cũng nặng gánh đời

Gay thuyền ([28]) tách bến ra khơi

Tiến, ghê sóng gió; lui, người mỉa mai.

Con gắng lên, trí tài chẳng hổ

Con gắng lên, đức độ hơn người

Xưa ai luyện đá vá trời ([29])

Nay con đem đạo cứu người trầm luân.([30])

Gọi chị em hãy bừng tỉnh dậy

Dậy nhìn xem cho thấy tương lai

Phấn son sánh với râu mày

Điểm tô xây đắp Đạo Thầy vẻ vang

Nghìn thu rạng gái Nam bang.

Thầy khuyên các con chức sắc Lưỡng Đài nam nữ cần cố gắng thêm để cho việc đạo tiến đều.

Giờ này, lời Thầy dạy dỗ các con khá ghi dạ. Phần đồng tử Huệ Thanh, con đến ngày nay đã gần mãn phận sự. Thầy ban ơn cho con đã làm tròn sứ mạng.

Thầy ban ơn lành các con nam nữ. Thầy hồi cung. Thăng.

 



([1]) Ngọc Kinh: Bạch Ngọc Kinh 白玉京 (the White Jade Capital), kinh thành ngọc trắng, nơi Đức Thượng Đế ngự.

([2]) mấy mươi thu: Mấy mươi năm.

([3]) Hoàng Đạo 皇道 (the Great Way): Đại Đạo 大道.

([4]) thượng trí 上智: 1/ Thượng đẳng trí tuệ 上等智慧 (trí tuệ cao tột: highest wisdom). 2/ Đại trí chi nhân 大智之人 (người đại trí: man of great wisdom).

([5]) Đế minh chánh pháp 帝明正法 (God clarifies the true dharma): Đức Thượng Đế làm sáng tỏ chánh pháp.

([6]) Thầy các con (I’m your Master.): [Ta là] Thầy [của] các con. Trong tiếng Việt, chữ của thường được hiểu ngầm. Thí dụ: đất nước tôi, gia đình tôi, cha mẹ tôi, vợ tôi, chồng tôi, các con tôi… Nếu viết “Thầy, các con!” thì sai. (Đức Mẹ khi giáng cơ thường xưng: Mẹ Linh Hồn các con, có nghĩa: [Ta là] Mẹ Linh Hồn [của] các con. (I’m your Spiritual Mother.)

([7]) Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn ngày 20-02-1926, Đức Chí Tôn dạy: Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà / Chánh tà hai lẽ đoán sao ra / Sao ra Tiên Phật, người trần tục / Trần tục muốn thành phải đến Ta. Xem thêm Phụ Đính: Bạch hắc cũng đừng đòi hỏi biết, trong Tìm Hiểu Thánh Truyền Trung Hưng – Năm Canh Tý (1960), tr. 197-198.

([8]) công lệ 公例 (common rule): Quy luật chung.

([9]) suy đồi 衰頹 (weak and degenerate): Yếu ớt và sa sút (xuống cấp, thoái hóa 退化).

([10]) trò (trick): Mánh khóe, việc làm nhằm đánh lừa hoặc không đứng đắn, không nghiêm chỉnh.

([11]) phong vũ 風雨 (wind and rain; fig., trials and hardships): Gió mưa; nghĩa bóng là những thử thách, gian nan.

([12]) đàn nhạn lạc bầy (stray geese from their flock; fig., seceders): Những người tách ra riêng (ly khai: seceding).

([13]) ngự hàn 禦寒 (defending sb against the cold, keeping sb warm): Chống lạnh, giữ ấm.

([14]) Đạo pháp, giới hạnh là chiếc áo ngự hàn. Hãy cố giữ để gặp Thầy trong ngày xuân xán lạn: Thuở mới khai Đạo, Đức Chí Tôn dạy tương tự: Chung quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các con mặc một bthiết gp chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức của các con. Ấy vậy, rán gìn giữ b thiết gp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn ngày 13-3-1926; Thầy nhắc lại trong đàn 07-8-1926).

([15]) đảm đang, đảm đương 擔當 (assuming sth, undertaking sth): Nhận lãnh, gánh vác.

([16]) danh vị 名位 (honour and rank): Danh dự 名誉 phẩm vị 品位.

([17]) thị phi 是非 (right and wrong; praise and criticism). Đúng và sai; lời khen chê của dư luận.

([18]) bể dâu (tang hải 桑海): Biển dâu, dâu bể, dâu biển. Do thành ngữ thương hải tang điền 滄海桑田, ý nói ruộng dâu biến thành biển xanh, hoặc ngược lại; ám chỉ biến cố hay thay đổi lớn lao ở đời (life’s vicissitude).

([19]) cơ cầu (extremely difficult): Gian nan quá đỗi.

([20]) bụi hồng (hồng trần 紅塵): Tục lụy 俗累, những ràng buộc, bận lòng tầm thường ở đời (worldly ties, worldly concerns).

([21]) ngoài trong: Ngoài nước và trong nước.

([22]) Câu này ý nói: Nơi này về sau là chỗ năm châu tìm đến học đạo.

([23]) hộc hồng: Hộc thiên nga 天鵝 (swan). Hồng đại nhạn 大雁 (wild goose); Hai loài chim này bay cao và xa, văn học dùng ám chỉ người có chí hướng cao xa (person with noble aspirations).

([24]) kình ngư 鯨魚 (whale): Cá voi.

([25]) hướng đạo (hướng đạo giả 向導者: spiritual leader; those who lead their coreligionists): Người dẫn dắt đạo hữu.

([26]) siêu quần 超群 (pre-eminent, surpassing all others): Vượt trội hơn mọi người khác.

([27]) Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([28]) gay thuyền: Chèo thuyền.

([29]) Câu này ý nói phụ nữ ngày xưa chí lớn, dám gánh vác việc trọng đại để cứu khổ cho dân chúng (như hai chị em bà Trưng và bà Triệu nước Nam, Jean d’Arc nước Pháp, v.v...) – luyện đá vá trời (luyện thạch bổ thiên 煉石補天: smelting stones to fill the hole in the sky): Theo huyền sử Trung Hoa, thần lửa (hỏa thần 火神) là Chúc Dung 祝融 đánh nhau với thần nước (thủy thần 水神) là Cộng Công 共工 làm sập một góc trời, gieo thảm họa xuống thế gian; vì vậy em gái vua Phục Hy 伏羲 là Nữ Oa 女媧 luyện đá ngũ sắc (ngũ sắc thạch 五色石) để vá trời cứu khổ muôn dân.

([30]) trầm luân 沉淪 (sinking): Chìm đắm. Trầmluân đồng nghĩa. – người trầm luân: Chúng sanh còn đắm chìm trong cõi trần là bể khổ (vì chưa biết tu hành để thoát khổ).

 

Huệ Khải chú thích & Lê Anh Minh hiệu đính