Thánh giáo
GÁNH GỒNG NHIỆM VỤ, ĐÓ AI ƠI!
Thánh thất Trung Thành (Đà Nẵng)
01-12 Mậu Dần (Thứ Sáu 20-01-1939)
THI
Mừng
vui chi xiết nỗi mừng vui
Trước cửa lằn
nhang phảng phất mùi ([1])
Kíp chuyển cơ
linh truyền thánh chỉ ([2])
THÀNH HOÀNG BỔN
CẢNH Lão chào lui.([3])
Khá
thành tâm nghiêm đàn tiếp lịnh Đại Thánh. Ta lui.
TIẾP ĐIỂN
TRẦN HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG
Chào
chư Thiên mạng,([4]) chư chúng sanh.
THI
Canh
tàn giờ lụn mải thì thôi ([5])
Liệu bảy lo ba
cũng chửa rồi ([6])
Lo nỗi nhà
xiêu, tường cột ngã ([7])
Gánh gồng nhiệm
vụ, đó ai ôi! ([7bis])
Than
ôi! Lượn sóng kim tiền ([8]) từ Đại Tây Dương,
Thái Bình Dương bổ dội, làm cho năm châu lay động, bốn bể gập ghềnh; non sông
bờ cõi sắp đến cuộc đổi dạng thay hình, cỏ cây nhuộm máu phai màu, núi sông vùi
thây ([9])
thành bãi...
Than
ôi! Cũng chỉ vì người xa đạo đức, đạo đức thất chơn truyền, đem ý phàm mà canh
cải mạng Thiên, khéo đặt bày duy tân diệt cổ.([10])
Hỡi
ôi! Đời đến thế, thế phải toan phương liệu chước.([11]) Phương nào chước
nào mà chống lại? Thời gian, hoàn cảnh sắp đến cuộc điêu tàn ([12]) đây rồi!
Hữu
phước hữu duyên đồng bào ta, nhân loại ta còn một cơ hội rất may mắn, rất quý
báu nữa là:
Nam bang phục khai chơn đạo;
Ngọc Đế tận cứu quần
sinh.([13])
Nhân
loại ôi! Đồng bào ôi! Còn một Kỳ Ba đại xá là Tam Kỳ Phổ Độ khai hội Long Hoa.
Nếu chẳng lo hướng thiện hồi đầu,([14]) một kiếp chót nữa
khó mà muôn ngàn năm gặp đặng.
Thế
thì cậy ([15])
nơi đạo đức lập thành tôn giáo. Tôn giáo có quy củ chuẩn thằng ([16]) còn phải tương đối
([17]) với nhân loại, với
thời kỳ. Tất nhiên phải tổ chức cho có cơ quan;([18]) đó là bước hành
trình để công khai tôn giáo.
Hỡi
ôi! Thế mà trong kỳ lập Đạo đến nay, vạn sự khởi đầu chỉ là một mặt phổ thông
giáo lý mà thôi, chưa hề nói đến cơ quan, tổ chức. Đến nay là thời kỳ phải làm,
chẳng còn chờ đợi chi nữa! Nông Viện, Học Viện, Nữ Phái Liên Đoàn, Phổ Thông
Giáo Lý...
(...)
Hỡi
ôi, nhân tài khiếm khuyết, trăm phần khó! Ôi! Ai là kẻ ưu thời mẫn thế?([19]) Ai là người cứu tế
([20]) nhơn sanh?
THI
Thế
cuộc đương cơn sắp loạn ly
Hỡi Trung, Nam,
Bắc cả ba kỳ! ([21])
Ai người mẫn
thế ưu thời đó
Gánh nặng oằn
vai chẳng quản chi?
BÀI
Chuyển
ngọc bút linh cơ bố điển
Giáng đàn
trung, vận chuyển huyền quang ([22])
Dạy cho phận sự
rõ ràng
Dạy cho đẳng
đẳng linh tàn biết noi.([23])
Noi thánh huấn,
học đòi ([24]) thánh huấn
Học Thiên cơ,
biết thuận Thiên cơ
Than ôi! Lặng
lẽ như tờ ([25])
Canh tàn đèn
lụn, bơ thờ lời châu.([26])
Dạy vài câu,
vài câu cho hãn ([27])
Hãn cơ Trời, ai
đoán thử coi?
Máy linh rày đã
ló mòi ([28])
Ló mòi vận
chuyển ra ngoài năm châu.
Âu, Úc, Mỹ,
đứng đầu châu Á
Lập Đạo Trời
truyền bá nhân gian
Hai mươi lăm
triệu linh tàn
Tiên Rồng con
trước, Hồng Bàng cháu sau.
Non sông đã
khoe màu cẩm tú ([29])
Làm sao cho bần
phú tương tư ([30])
Đừng cho bất
túc, hữu dư ([31])
Đại đồng xã hội
lao tư tương phò.([32])
Làm sao đặng ăn
no mặc ấm
Làm sao cho Đạo
thấm vào tâm
Làm sao ai kiếm ai
tầm
Ai chèo ai chống,
ai nằm mà coi?
Coi cái cuộc có
mòi trở trắc ([33])
Gà cùng nhau bôi
mặt đá chơi
Đá chơi cho biết
mùi đời
Đá chơi hỏi thử cơ
Trời định sao.
Sao cho đặng bước
vào cơ hội
Sao làm sao chuộc
tội mình gây
Làm sao mà đặng về Thầy
Làm sao mà đặng
phương Tây tìm về? ([35])
Sớm Bồng Lai, tối
về bửu động ([36])
Mặc tình ai dù
lọng nghinh ngang
Lắm cười rồi cũng
lắm than
Lắm khi phú quý,
cơ hàn lắm khi.
Trí phải tri, trí
tri thời vận ([37])
Tri Tam Kỳ mạt tận
Thiên cơ
Một năm, một
tháng, một giờ
Có ai mà đợi mà
chờ ai đâu?
À!
Trung Quang ([38]) có dâng mật cáo
xin liễn thờ.([39]) Đây Lão cho:
Ngọc Đế
chưởng Tam Kỳ; Nam, Bắc, Đông, Tây hưng
chánh đạo;
Cao Đài quy vạn pháp; Thích, Nho,
Gia, Lão thống chơn truyền.([40])
Thôi,
Lão chào chư vị. Lão lui.
PHỤ
ĐÍNH
1. Thành
Hoàng Bổn Cảnh 城隍本境 (Patron Deity of This Locality)
1.1. Thành là vòng
tường thành (wall) bao bọc một thành
phố hay lâu đài. Hoàng là hào
nước sâu (moat) vây bên ngoài vòng
tường thành. Như vậy có hai lớp bảo vệ thành phố hay lâu đài. Đời Đông Hán, trong bài tự Lưỡng Đô Phú 兩都賦序, sử gia Ban Cố 班固 (32-92) viết về việc phòng vệ này
như sau: Tu sửa cung thất ở kinh đô, đào
sâu hào xung quanh thành. (京師修宮室, 浚城隍. Kinh sư tu cung thất, tuấn thành hoàng.)
1.2. Thành Hoàng là vị Thần phổ biến trong tín ngưỡng
Nho Giáo và Lão Giáo Trung Hoa. Người Hoa còn gọi Thành Hoàng là Thành Hoàng da 城隍爺 (ông Thành Hoàng). Da là từ
gọi Thần Thánh, thí dụ: Lão Thiên da 老天爺 (ông Trời Già); Tài Thần da 財神爺 (ông Thần Tài). Tục thờ Thành Hoàng liên quan đến sự thành lập, phát
triển của một địa phương và cầu xin Thần linh che chở cho địa phương ấy. Các vị Thành Hoàng phần lớn là danh thần, anh hùng, người có công đức to tát
tại địa phương nên được dân địa phương phụng thờ sau khi các vị qua đời.
Nói về tục thờ Thành Hoàng, trong
bộ Bắc Tề Thư 北齊書 (Mộ
Dung Nghiễm Truyện 慕容儼傳), của
Lý Bá Dược 李百 藥 soạn năm 636
(đời Đường), khi chép về lịch sử triều đại Bắc Tề (550-577) có câu: Trong thành trước tiên có một chỗ thờ thần, tục gọi là thần Thành Hoàng, mỗi khi có việc công hay tư đều cầu cúng. (城中先有神祠一所, 俗號城隍神, 公私 每有祈禱. Thành
trung tiên hữu thần từ nhất sở, tục hiệu thành hoàng thần, công tư mỗi hữu kỳ đảo.)
Tục thờ cúng Thành Hoàng ở Trung Hoa
sắp đặt có quy củ từ thời Nam Bắc Triều (420-589). Đời Nguyên (1279-1368) phong
Thành Hoàng là Hựu Thánh Vương 佑聖王 (Thánh Vương Phù Hộ). Đầu đời Minh (nửa sau thế kỷ 14) phong tước cho
Thành Hoàng khắp nước theo bốn bậc (vương
王, công 公, hầu 侯, bá 伯) để mỗi khi cúng tế hằng năm thì tùy theo phẩm tước mà vị chủ tế là
vua, hay quan phủ, quan châu, quan huyện.
1.3. Ở Việt
1.4. Trong Thánh Truyền Trung Hưng, có bốn vị Thành Hoàng Bổn Cảnh đến báo đàn
tại bốn nơi như sau: a/ Thánh tịnh Đại Thanh (Gò Vấp), ngày 01-8 Giáp Tuất (Chủ
Nhật 09-9-1934); b/ Thánh thất Trung Thành (Đà Nẵng), ngày 01-12 Mậu Dần (Thứ
Sáu 20-01-1939); c/ Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng), ngày 20-01 Canh Tý (Thứ Ba
16-02-1960); d/ Thánh tịnh Ngọc Minh Đài (quận Tư, Sài Gòn), ngày 04-3 Quý Mão
(Thứ Năm 23-8-1963).
2. Ba kỳ (tam kỳ 三圻: three territories)
Tức là Bắc Kỳ 北圻, Trung Kỳ 中圻, Nam Kỳ 南圻, theo chánh
sách chia để trị của thực dân Pháp sau khi đã thôn tính 吞併 trọn vẹn nước
Huệ
Khải chú thích – Lê Anh Minh hiệu
đính
([1]) trước cửa: Trước cửa thánh thất. – lằn nhang (a thread of incense smoke): Làn khói nhang; sợi khói nhang. – phảng phất (wafting up in the air): Phưởng phất; thoang thoảng; nhè nhẹ chứ
không nồng đượm.
([2]) kíp (cấp 急: urgent,
urgently): Gấp, vội, không chậm trễ. – thánh chỉ 聖旨 (holy edict; God’s edict): Chiếu chỉ 詔旨 của Thượng Đế; văn bản truyền lệnh của Thượng Đế.
([4]) Thiên mạng, Thiên mệnh 天命 (Heaven’s missioner): Bậc hướng đạo đang
nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó. Đồng nghĩa Thiên ân sứ mạng (Heaven’s blessed missioner).
([5]) canh tàn giờ
lụn: Canh giờ tàn lụn; thời gian đã hết. – canh giờ: Tương đương hai tiếng đồng
hồ; một ngày có mười hai canh giờ. – mải (being absorbed in sth): Mải miết; cứ
mảng say mê lo làm một việc gì và không còn để tâm đến các việc khác.
([6]) liệu bảy lo ba: a/ (Nghĩa thông thường)
lo liệu, sắp đặt đủ thứ công việc lớn nhỏ cho chu đáo, đâu vào đấy. Ca dao: Một mình liệu bảy lo ba
/ Lo cau đỏ hạt, lo già hết duyên. – b/
(Nghĩa trong bài) lao tâm khổ trí mưu cầu tiền tài danh vọng cả đời cũng chưa
xong.
([7]) Lo nỗi nhà xiêu, tường cột ngã: Phải
chăng ngụ ý rằng việc đáng phải lo là đất nước ngửa nghiêng và nền tôn giáo Cao
Đài hãy còn phân hóa?
([7bis]) Tạm mượn câu này làm nhan đề bài thánh giáo.
([8]) kim tiền 金錢 (money):
Chữ kim 金 ở đây là kim loại (metal). Phần lớn tiền thời xưa đúc bằng kim loại (đồng, chì, bạc,
kẽm); về sau phát minh ra tiền giấy (chỉ
tệ 紙幣: paper currency). Tiền giấy Trung Quốc được các thương nhân đời Đường
phát minh khoảng năm 800, thường gọi là phi
tiền 飛錢
(tiền bay) để tiện giao dịch, rồi được triều đình chấp nhận. Hai chữ “kim tiền” được dùng với nghĩa là tiền bạc nói chung. – lượn sóng
kim tiền: Trào
lưu hay xu hướng lôi cuốn đông đảo người đời chạy theo lợi ích vật chất, xa lìa
những giá trị đạo đức.
([10]) duy tân 維新 (reforming sth; modernising sth): Đổi
mới. – diệt
cổ 滅古 (exterminating
ancient traditions or culture): Tiêu diệt, trừ khử các truyền thống hay văn
hóa cổ xưa.
([11]) toan phương liệu chước: Toan liệu
phương chước; lo liệu phương sách 方策 (strategy)
và mưu chước (cơ mưu 機謀: scheme)
([14]) hướng
thiện hồi đầu 向善回頭
(turning back to the good, i.e., being
awakened and interested in self-cultivation): Tỉnh ngộ mà quay về đường
chánh lẽ phải; thức tỉnh mà lo tu sửa bản thân.
([15]) cậy (depending on sb or sth; relying on sb or sth; counting on sb or sth):
Nhờ cậy; nhờ vào; nương vào.
([16]) quy củ
chuẩn thằng 規矩準繩 (rules and standards): Những phép tắc,
mẫu mực cần phải theo đúng. Quy, củ,
chuẩn, thằng nguyên nghĩa là bốn dụng cụ đo đạc gồm có: a/ Quy 規 là com-pa (compass), dùng để vẽ vòng tròn, hay đo khoảng cách trên bản đồ... –
b/ Củ 矩 là ê-ke (tiếng Pháp: équerre), cây thước vuông (steel
square, framing square, carpenter’s square) dùng để đo góc vuông. –
c/ Chuẩn 準 là thước thăng bằng (level), dùng để kiểm tra mặt phẳng nằm ngang. –
d/ Thằng 繩 (tức thằng
mặc 繩墨) là sợi dây thợ mộc căng thẳng giữa hai điểm để lấy lằn
mực thẳng (carpenter’s straight line
marker). Có thể dùng phấn tẩm vào sợi dây thay cho mực.
([17]) tương đối 相對: Tương ứng 相應; khế hợp 契合; phù hợp 符合 (corresponding to sb). Tiền bối Cao Triều Phát dạy: “Muốn thực hiện thế nhơn hòa mà không dùng
ngôn từ của người đời nay, không cùng tâm tư của người đời nay thì mong gì
người hiểu được mà ta
phổ độ!” (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 11-02 nhuần Ất Sửu,
31-3-1985)
([18]) cơ
quan 機關 (an organ; an organization performing a specified function): Một bộ máy hay tổ chức thi hành một chức năng đã
xác định rõ. – phải tổ chức cho có cơ quan: (Tôn giáo) phải được tổ
chức với đầy đủ các đơn vị chức năng hoạt động nhịp nhàng như các bộ phận trong
một bộ máy.
([20]) cứu tế 救濟: a/
Dùng tiền bạc, của cải giúp đỡ những người thiếu thốn tiền bạc, thực phẩm, quần
áo, v.v... (helping the needy with cash
or goods). – b/ Cứu
độ, cứu giúp nhơn sanh đau khổ trên cả hai phương diện nhân sinh và tâm linh,
vật chất lẫn tinh thần.
([22]) huyền
quang 玄光 (mysterious light): Ánh sáng huyền
diệu; thiên điển của các Đấng thiêng liêng.
([23]) đẳng
đẳng 等等 (everyone):
Hết thảy mọi người. – linh tàn: Tàn linh; đảo ngữ cho ăn vần theo luật
thơ. – tàn
linh 殘靈 (leftover spirits): Những linh căn (nguyên nhân 原人) còn
sót lại trong số chín mươi hai ức nguyên nhân bị rớt lại (cửu nhị tàn linh 九二殘靈) sau hai kỳ phổ độ.
Theo Ngọc Lộ Kim Bàn 玉露金盤 (the Golden
([26]) canh tàn đèn lụn: Đêm tàn (trời gần
sáng) và đèn lụn tim (vì cạn dầu). – lời
châu: Lời châu tiếng ngọc; lời thánh giáo (thánh huấn) truyền từ ngọn cơ. – bơ thờ lời châu: (Môn sanh mệt mỏi vì
thức khuya hầu đàn nên) không còn tập trung chú ý tới lời thánh huấn.
([28]) rày (today,
now): Nay, lúc này. – ló mòi (showing the minutest sign): Cho thấy dấu hiệu nhỏ nhặt, tinh vi. – Máy
linh rày đã ló mòi: Thiên cơ (máy linh)
ngày nay đã được hé lộ chút ít dấu hiệu để con người biết mà thức tỉnh lo tu
hành.
([29]) cẩm tú 錦繡 (embroidered brocade; fig., beautiful):
gấm thêu; nghĩa bóng là tươi đẹp; đẹp đẽ. – cẩm tú giang sơn 錦繡江山 (beautiful country): Nước non tươi đẹp.
([30]) bần phú tương tư 貧富相思 (the rich do not ignore the poor): Người
giàu nhớ nghĩ tới kẻ nghèo mà giúp đỡ.
([31]) bất túc 不足 (insufficient;
deficiency; not enough): Không đủ; thiếu thốn. – hữu dư 有餘 (having
an abundance): Có thừa thãi; có dư dật. – Đừng cho bất túc, hữu dư: Đừng để trong
xã hội có người thì quá giàu và có người lại quá nghèo.
([32]) lao tư 勞思 (the labourer and the intellectual):
Người lao đông chân tay và người lao động trí óc. – tương phò: Tương phù 相扶 (helping each other; supporting each other); giúp đỡ lẫn nhau; nâng
đỡ lẫn nhau. (Nói trại ra “tương
phò” để ăn vần theo luật thơ.)
([36]) Bồng Lai 蓬萊: Một hòn đảo có Tiên ở (an island that is the abode of Immortals); nghĩa bóng là cảnh Tiên,
cõi tiên, cõi cực lạc, cõi thiên đàng (paradise).
– bửu
động 寶洞 (precious cave): Động báu (nơi Tiên ngự).
([37]) trí tri 致知 (attaining
the utmost knowledge): Biết cho rốt ráo; biết cho đến cùng tột. – thời vận 時運 (opportunity and destiny): Cơ hội và định
mạng.
([38]) Trung Quang: Thánh thất này đã sáp nhập với thánh thất Trung Bình trở thành thánh
thất Trung Quang Bình (ở thôn Trung Phước, thị trấn Quế Trung, huyện Quế Sơn,
tỉnh Quảng Nam).
([39]) liễn, liên 聯 (an antithetical couplet):
Câu liễn, câu đối; các chữ viết trên giấy hay vải, khắc trên gỗ, v.v... xếp
theo hàng dọc, chữ dưới nối theo chữ trên. Thường viết thành cặp, gọi là đối liên 對聯 hay liễn đối 聯對 (a pair of antithetical couplets),
được dán hay treo song song và đối xứng nhau trên bàn thờ (gọi là liễn thờ), hay ở hai cột nhà (gọi là doanh liên 楹聯: couplets on pillars), ở hai bên cửa (gọi
là môn liên 門聯: couplets on doors), v.v... Số chữ trong
mỗi câu phải bằng nhau; từng chữ trong hai câu đối với nhau (opposite) về thanh (bằng, trắc), ý
nghĩa, v.v... Câu đối tết gọi là xuân
liên 春聯 (spring antithetical couplets).
Huệ Khải chú thích – Lê Anh Minh hiệu đính