LÀM NGƯỜI LÀ CHIẾM ĐƯỢC
TIÊN
Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
ngày 24-6 Canh Tuất (Chủ Nhật
26-7-1970)
Bản Thánh, HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG, chào chư liệt vị Thiên ân cùng đạo tâm nam
nữ. Thành kính tọa thiền hộ điển.
THI
Tiên
thiên nhứt khí ([1]) thể ([2]) hỗn
nhiên ([3])
Thanh tĩnh, vô
vi, Đạo cực huyền ([4])
Phương tiện đa môn, quy nhứt lộ ([5])
Chí thành bất tức, chứng Kim Tiên.([6])
先天一氣體渾然 / 清靜無為道極玄
方便多門歸一路 / 至誠不息證金仙
Trước khi chưa dựng nên trời đất, Đạo là vô vi, hỗn nhiên trong bầu hư vô
lặng lẽ,([7]) không một vật gì trộn lẫn, nên gọi
là khí tiên thiên. Khi Đạo dựng nên càn khôn thế giới,([8]) gồm cả vạn hữu chúng sanh,([9]) âm dương phân định, ấy là hậu thiên
khí chất.
Con người là tiểu thiên địa, cũng như một bầu vũ trụ, tuy nhỏ bé nhưng
gồm đủ không khác chi trời đất. Mỗi người đều thọ nơi Thượng Đế một điểm linh
quang, âm dương hun đúc ([10]) mà thành hình. Thần nương đó để phát
huy năng lực, thi thiết ([11]) quyền pháp, tài thành ([12]) cho công cuộc tạo hóa([13]) được trọn nên, chung lộn trong thời
gian và không gian đặng triển khai ([14]) tâm thức, tạo lấy sự nghiệp tôn
vinh,([15]) đặt trách nhiệm của con người.
Quyền năng ấy Thượng Đế đã ban phú cho mọi loài. Loài nào cũng trải qua
một cuộc hành trình vô định. Khi làm xong phận sự của mình, lúc đó trở lại hội
hiệp cùng Trời, gọi là thành Tiên tác Phật.
Cõi đời là bể khổ trầm luân,([16]) nhưng đó cũng là trường học rèn
luyện con người để thâu hoạch công trình tự người làm nên. Mà đời cũng là bãi
chiến trường khốc liệt; con người dấn thân vào đấy, tự mình phải chiến thắng để
tạo cho mình một địa vị anh hùng, rèn đúc gan óc rắn rỏi, sáng suốt để đủ sức
vượt qua mọi chướng ngại hiểm nghèo.
Nhưng ngoài giai đoạn thành công đó còn phải tự chiến thắng bản thân,
trông ra mọi vật như đám quyến thuộc ([17]) của mình. Chính đó là cái tâm cơ ([18]) giong ruổi bên ngoài. Dầu là sông
núi, chúng sinh cũng do tâm mình mà xuất hiện,([19]) nên phải tạo cho được hạnh người bồ
tát, lấy bát nhã tâm mà quán chiếu ([20]) mọi loài. Nếu không chủ ([21]) được tâm thì tâm buông lung, phóng
túng, kẹt mắc khắp muôn cảnh trần duyên;([22]) rồi nội thân mờ mịt, tình thức gây
xáo trộn, khổ đau, ý chí lộn cuồng, không biết trần ai là ảo vọng.
Con người khi nào nhận được bản chất hậu thiên là đa tạp, mê mờ, rối loạn
mới tìm đường trở lại nguồn đầu,([23]) quay về với Đạo, như lúc chưa có đất
trời, một khối hỗn nhiên, lòng mình thông tuệ, bồ đề tự tại.([24])
Con người vì nhận lầm mà bỏ gốc theo
ngọn, nên không thấy được bản thân mầu nhiệm của mình, quên hẳn nguồn gốc ở
tâm, đâu hiểu chỗ sở dĩ([25]) phát sinh. Mắt thấy tai nghe, thân hình hoạt
động, tất cả đều do tâm; nên mũi mới biết được mùi, lưỡi mới nếm được vị, miệng
mới nói nên lời, ý mới nghĩ được việc nầy việc nọ.
Tâm đã phát tiết ra nhiều thì sự hư hụt bên trong càng ngày càng kiệt
cạn. Thông qua các cửa,([26]) vướng víu đắm mê ngoại cảnh mà con
người đành chịu hèn mạt, khổ đau.
BÀI
Trước vũ trụ, đất trời chưa có
Như thế nào, đâu rõ âm hao ([27])
Mông mênh, thông cực,([28]) diệu cao ([29])
Tối linh vô thượng,([30]) dám sao nghĩ bàn.
Thánh truyền sở,([31]) hỗn
mang Vô Cực ([32])
Ngôi tiên thiên, Thái Nhứt ([33]) bổn
sơ ([34])
Uyên uyên,([35]) thấp
thoáng, mập mờ ([36])
Hỗn nhiên, thanh tịnh, thần cơ nhiệm mầu.
Thần vô phương ([37]) nhưng
đâu cũng có
Cơ diệu vi ([38]) lấp ló chưa trình ([39])
Như như,([40]) cương
kiện, trọn lành
Hốt nhiên ([41]) Tạo
Hóa phân thành hai nghi.([42])
Khối âm dương,
Thần ky ([43]) xuất
hoạt
Đạo trung hòa bàng bạc hóa sanh
Kiền khôn thế giới định thành
Ngày đêm, thời tiết vận hành biến thông.
Cơ động tịnh, sắc không, ẩn hiện
Máy âm dương luân chuyển, tuần hoàn
Thần kỳ, diệu diệu, mang mang ([44])
Con thoi nhựt nguyệt dọc ngang
kết liền.
Tự nhiên mãi,
đương nhiên hẳn thế
Xảo diệu ([45]) mà thực
tế, giản đơn
Trông vào thấy quả biết nhơn
Bủa ra nhóm lại, chánh chơn nhiệm
mầu.
Nhứt bản tán vạn
thù,([46]) lưu
lãng ([47])
Vạn thù quy nhứt bản,([48]) hoàn
nguyên ([49])
Ngược dòng nhập Thánh vào Tiên
Thuận theo dục lạc, não phiền, tử
sanh.
Vay phải trả,
loanh quanh sáu nẻo ([50])
Ý sanh tình, lẽo đẽo bên thân
Sáu căn duyên với sáu trần
Lông mang sừng đội,([51]) tinh
thần tiêu tan.
Người đứng giữa
nấc thang giao biến ([52])
Được làm người là chiếm được tiên ([53])
E người tâm chí đảo điên
Tự do, phóng túng, ý Thiên che mờ.
Tiếp nhận được
thời cơ chẳng dễ
Chậm một giây là trễ một đời
Thời cơ tuy đã đến nơi
Lòng còn đen bạc, luật Trời khó
dung.
Phải là Thánh
mới cùng Tiên Thánh
Có chánh tâm mới chánh được người
Đọt xanh nhờ gốc rễ tươi
Đời hay nhờ có con người sáng
khôn.
Cậy khôn sáng,
tự tôn tự đại
Thì bị đời đào thải, bất dung ([54])
Đặng dân, đặng ở thời trung
Đặng lòng trời đất hầu ([55]) tùng
Thiên cơ.
Người quân tử
không mơ ngoại cảnh
Lo trau dồi tâm tánh nội thân
Đến khi xuất hóa nhập thần
Ấy là thành kỷ, thành nhân vẹn
toàn.([56])
Muốn hạ thủ ([57]) lần
sang cõi Thánh
Lo lập nền đức hạnh thanh cao
Ái ân, danh lợi ngăn rào
Nhảy ra cửa có, men vào cửa không.
Đặng mở một
đường thông đến Đạo
Lòng lâng lâng hy hạo thái huyền ([58])
Thấy mình chứng nhập tự nhiên
Không còn hệ lụy trần duyên như
ngày.([59])
Trước kia khác
mà nay đã khác
Xưa vong thân ([60]) nay đạt
lại thân
Trước kia tâm thức duyên trần
Phóng theo ngoại cảnh, trong thân
nghèo nàn.
Lòng thiếu thốn,
khô khan, thèm muốn
Mới theo tâm, yêu chuộng giựt
giành
Không nề gian khổ, tử sanh
Miễn sao cướp đoạt về mình là vui.
Vì mất tâm, lòng
nuôi ích kỷ
Được tâm rồi, ý chí rảnh rang
Tâm ta như mạch suối tràn
Tình thương, sự sống chứa chan
dồi dào.
Xưa khốn khổ,
khát khao vật lạ
Nay dư giàu, có cả nơi tâm
Tâm đi, nã tróc,([61]) kiếm
tầm ([62])
Tâm về, ấm áp thì Thần hân hoan.
Cây bật gốc, lá
tàn mục nát
Người mất tâm, lang bạt khổ hình
Biết mau khử ám hồi minh ([63])
Cầu Thầy hỏi bạn phương trình nội tâm.([64])
Giới định huệ
nằm lòng tha thiết
Tham sân si tận diệt căn đề ([65])
Thức căn cột chặt, thâu về
Không còn rối loạn, hôn mê, biếng
lười.
Khi được thấy
trong người yên ổn
Đó là phương lập bổn ([66]) xây nền
Trong ngoài muôn sự đều quên
Chấp trung thủ nhứt ([67]) cho bền công phu.
Bước sơ cơ, kiếp
tu khổ hạnh
Nào nội tâm, ngoại cảnh rầy rà ([68])
Chiến trường ngay ở lòng ta
Thất tình, lục dục kéo ra tranh
hùng.
Tâm cứ mặc,([69]) thung
dung,([70]) vô
sự
Mãi như như, không cự không hàng ([71])
Lâu ngày tự chúng rã tan
Thập tam ma chúng ([72]) quy
hàng tự nhiên.([73])
Bản Thánh chào. Thăng.
([1]) tiên thiên
nhứt khí 先天一氣: Một khí tiên thiên. Theo Tiên Học Từ Điển 仙學辭典 của Đới Nguyên
Trường 戴源長, tiên thiên nhứt khí cũng là tiên thiên chơn khí 先天真氣.
Khí này có từ hư không, lúc hồng
hoang 鴻荒 (hỗn độn 混沌: chaos), khi chưa phân lập trời đất, còn trạng thái hỗn nhiên 混然.
([2]) thể (substance, being): Bản thể 本體, cái tự nó tồn tại, đối lập với các hiện tượng 現象 (phenomena).
([3]) hỗn nhiên 混然: 1/ Hỗn loạn, loạn tạp 亂雜, 混亂 (confused, chaotic, disordered). –
2/ Hỗn nhiên nhất thể 渾然一體 (blended into one another, blended together well: trộn lộn vào nhau), không thấy dấu vết
(bất kiến ngân tích 不見痕跡: leaving no trace). – 3/
Mơ hồ, không biết gì (hồ đồ 糊塗: confused, muddled; vô sở tri
無所知). – 4/ Chất phác 質朴 (plain and simple), thuần chân 純真 (pure
and unaffected). – 5/ Hình dạng
không phân biệt được (vô phân biệt đích dạng
tử 無分別的樣子: indistinctive appearance). – 6/ Hình dạng mơ hồ, giản dị, không biết
gì (hỗn phác vô sở tri đích dạng tử 渾朴無所知的樣子).
([5]) Câu này ý nói:
Phương pháp (hay pháp môn) tuy đa dạng nhưng đều chung lối dẫn về Đạo. Câu này
tương tự như Đồng
quy nhi thù đồ 同歸而殊途: Đường tuy khác nẻo nhưng cùng về một chỗ (different ways lead to the same place). Hệ Từ Hạ 系辞下 trong Kinh Dịch xác định: Thiên hạ đồng quy nhi
thù đồ. 天下同歸而 殊途. (They all come to the same
target, though by different paths: Đường đi muôn lối, một chỗ cùng về.)
([6]) Câu này ý nói:
Trọn lòng thành thật (chí thành 至誠: completely sincere) mà tu hành không
gián đoạn (bất tức 不息: ceaselessly, continually, without a break)
thì sẽ đắc quả Kim Tiên.
([7]) Đạo Đức Kinh, Chương 25: Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sanh. 有物混成, 先天地生. (Có vật hỗn độn mà vẹn toàn, sanh trước trời đất. – There
was something chaotic and complete, coming into existence before heaven and
earth.)
([10]) hun đúc (huân đào 熏陶: being tempered): Un đúc, trui rèn, tôi
luyện, hình thành tính cách sau thời gian rèn luyện, thử thách lâu dài.
([12]) tài thành 裁成 (accomplishing sth,
fulfilling sth): Thành tựu 成就,
hoàn thành 完成,
hoàn tất 完畢, làm xong.
([13]) công cuộc tạo hóa (tạo hóa chi công 造化之工: the work of creation): Sự sáng thế 創世, việc dựng nên trời đất (sáng tạo thiên địa 創造天地).
([17]) quyến thuộc 眷屬 (family members and
relatives): Người trong gia đình và thân thích (thân nhân 親人, gia thuộc 家屬). trông
ra mọi vật như đám quyến thuộc của mình: Điều này dựa trên lý lẽ rằng mọi
vật và mình đều là những điểm linh quang (tiểu
linh quang 小靈光: micro sacred lights) được chiết ra từ
Thượng Đế (Đại Linh Quang 大靈光: the Macro Sacred
Light).
([19]) Nhà Phật nói: Vạn pháp duy tâm
tạo.
萬法唯心造. (All dharmas are made from the mind alone. –
Tất cả các pháp đều do tâm tạo nên.) Sách Liệt
Tử chép: Có người mất búa, đem bụng ngờ con nhà hàng xóm; bởi vậy thấy mọi
cử chỉ, vẻ mặt của nó đều gian xảo. Sau khi tìm thấy búa, lại thấy mọi cử chỉ,
vẻ mặt của nó không có chút gì giống như kẻ trộm cắp.
([22]) trần duyên 塵緣: Tức là lục trần 六塵 (sắc, thinh, hương, vị, xúc,
pháp: sight, sound, smell, taste, touch,
and idea). Vì tâm “duyên theo” (affected
by) sáu trần mà bị ô nhiễm, không thanh tịnh, nên gọi là lục trần là trần
duyên.
([23]) nguồn đầu (bản nguyên 本源: origin, source, starting point): Nguồn
cội, nguồn gốc ban đầu, khởi điểm.
([24]) tự tại 自在 (free, unrestrained): Tự
do, không bị ràng buộc (vì không còn bị phiền não, không còn bị tình cảm phàm
tục như lục dục thất tình sai khiến).
([26]) các cửa: Có sáu cửa (lục căn 六根: the six senses) là nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, và ý (mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ: eyes, ears,
nose, tongue, body, mind).
([29]) diệu cao: Cao diệu 高妙, cao siêu và
huyền diệu (đảo ngữ cho hợp luật bằng trắc trong câu thơ).
([31]) Thánh truyền sở: Thánh sở truyền 聖所傳 (What has been taught by Holy Ones is that):
Điều Thánh Nhân truyền dạy. (Theo luật thơ song thất lục bát, chữ thứ ba của
câu thất thứ nhất là thanh trắc: do
đó, phải đảo ngữ thành “truyền sở”.) – "Sở" kết hợp với động từ
thành danh từ, có nghĩa là "cái mà, điều mà". Chẳng hạn: "sở hữu"
所有 (cái mình có); "sở bất dục" 所不欲 (điều không muốn), "sở năng" 所能 (khả năng của mình), v.v...
([32]) hỗn mang Vô Cực: Ngôi Vô Cực trong thời
hỗn mang (chaos), trời đất chưa phân
lập (tiên thiên).
([33]) Thái Nhứt 太一:
Cũng gọi Thái Ất 太乙. Tức là Đạo 道, là bản nguyên 本原 (căn nguyên 根源) hay
bản thể 本體 của
vạn vật trong vũ trụ; từ nghĩa này, Thái Nhứt cũng là Thượng Đế.
([36]) Đạo Đức Kinh, Chương 21: Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề
hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề kỳ trung hữu vật. 道之為物, 惟恍惟惚. 惚兮恍兮, 其中有象. 恍兮惚兮, 其 中有物. (Đạo là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng.
Thấp thoáng, mập mờ mà bên trong có hình dạng. Mập mờ, thấp thoáng mà bên trong
có vật. – Dao is something only vague and obscure. How obscure! How vague! In it
there is form. How vague! How obscure! In it are things.)
([37]) Hệ Từ Thượng, chương IV: Thần vô phương. . . 神無方.
. . (Thần [linh diệu nên] không bị giới hạn hay bó buộc vào một chỗ nào.) – Thần
vô phương nhưng đâu cũng có: Thần không cố định ở một chỗ nào; tuy nhiên, bất
kỳ chỗ nào cũng có Thần.
([38]) diệu vi (vi diệu 微妙): Thâm áo huyền diệu 深奧玄妙 (obscure and
mysterious). Chữ thứ ba của câu thất thứ hai là thanh bằng nên phải đảo ngữ
thành “diệu vi”.
([39]) trình (trình hiện 呈現: appearing, manifesting itself, coming into
sight; becoming visible): Hiện ra, lộ ra, bày ra cho thấy.
([40]) như như 如如: Bất
nhiễm (uncontaminated), bất biến (invariable). Nhà Phật gọi “như như trí” 如如智 là
cái trí xưa nay thanh tịnh, không bị vô minh che lấp, không bị phiền não làm
cho ô nhiễm; gọi “như như cảnh” 如如境 là
cái cảnh thường trụ, không dời đổi, không sinh không diệt.
([46]) nhứt bản tán vạn
thù 一本散萬殊 (one origin dispersing into all differences): Một gốc phân tán ra
muôn vàn khác biệt.
([48]) vạn thù quy nhứt
bản 萬 殊 歸 一本 (all
differences returning to one origin): Muôn vàn khác biệt đều trở về một
gốc.
([50]) sáu nẻo (lục đạo 六道): Sáu đường luân hồi của chúng sanh, tùy theo những việc lành việc
ác đã tạo gây trong kiếp sống. (Six kinds
of rebirth in samsara that are undergone by sentient beings in accord with
their good or evil actions carried out in their previous lifetime.) Lục đạo
gồm có: 1/ Thiên 天 (devas: celestial
beings, gods, hiểu theo Phật Giáo; không phải là Thượng Đế theo
Nho, Lão, Cao Đài). – 2/ A tu la 阿修羅 (asura). – 3/ Nhơn 人 (người: human). – 4/ Địa ngục 地獄 (hell). – 5/ Ngạ quỷ 餓鬼 (quỷ đói: hungry ghost).
– 6/ Súc sanh 畜生 (thú vật: animal). Ba
đường trên (1, 2, 3) gọi là ba đường lành (tam
thiện đạo 三善道). Ba đường dưới (4, 5, 6) gọi là ba đường dữ (tam ác đạo 三惡道).
([52]) người đứng giữa nấc thang giao biến:
Con người đứng giữa hai nấc thang tiến hóa hay thoái hóa, vì có thể tu hành để
tiến hóa lên làm Thần, Thánh, Tiên, Phật nhưng cũng có thể bị đọa xuống làm thú
vật hay quỷ đói (súc sanh, ngạ quỷ) vì không biết tu hành, phạm quá nhiều tội
lỗi trong kiếp sống.
([53]) tiên 先 (the first): Vị trí đứng đầu trong các
loài. Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.
([56]) thành kỷ 成己 (completing oneself): Thành tựu cho mình (bản thân). ─ thành nhân 成仁
(completing one’s benevolence): Thành
tựu đức nhân của mình. Trung Dung 25:
Thành kỷ, nhân dã. 成己,
仁也. Thành tựu cho mình là đức nhân. (Completion of oneself is his benevolence.)
([57]) hạ thủ 下手 (starting
work on sth, putting one’s hand to sth): Bắt tay vào việc, ra tay làm việc,
khởi sự làm gì.
([58]) hy hạo thái huyền 希浩太玄 (great mystery of
silence and vastness): Tạm hiểu là Đạo bao la và lặng lẽ.
([60]) vong thân 亡身 (losing oneself):
Đánh mất chính con người của mình vì không hiểu đạo, không biết rằng chính mình
là một Tiên Phật sẽ thành, do đó chỉ sống theo sự sai khiến của lục dục thất
tình.
([61]) nã tróc 拿捉 (capturing sth, catching sth, seizing sth):
Tóm lấy, bắt giữ. Nã và tróc đồng nghĩa.
([62]) Mạnh Tử, Cáo Tử Thượng (11): Nhân hữu kê khuyển phóng, tắc tri cầu chi;
hữu phóng tâm, nhi bất tri cầu. 人有雞犬放, 則知求之; 有放心, 而不知求. (When men's fowls
and dogs are lost, they know to seek for them; when losing their mind, they do
not know to seek for it): Con gà, con chó chạy lạc, ắt biết kiếm tìm; cái
tâm thất lạc, lại không biết tìm kiếm.
([63]) khử ám hồi
minh 去暗回明 (removing
ignorance and restoring wisdom): Trừ bỏ sự u tối, lấy lại sự sáng suốt.
([64]) phương trình 方程 (equation):
Đẳng thức (có dấu =) chứa một hay nhiều ẩn số (vị tri số 未知數: con số chưa
biết: unknown, unknown quantity).
Chẳng hạn, ax+by+c=0 là một phương trình chứa hai ẩn số (an equation of two unknowns) là x và y. – phương trình nội tâm 內心的方程 (the
spiritual equation): Về lý thì con người có tính Trời, có Phật tánh, có Cao
Đài nội tại, v.v… Nhưng tất cả các giá trị (values)
thiêng liêng ấy đều là ẩn số. Tu hành là giải phương trình ở nội tâm mỗi người
để tìm ra ẩn số đó và thực chứng lời Đức Cao Đài dạy: “Con là một thiêng liêng tại thế / Cùng với Thầy đồng thể linh quang.”
([65]) căn đề (căn để 根柢: root, foundation): Gốc rễ, nền tảng. –
tận diệt căn đề (destroying sth at its root): Diệt sạch
tận gốc rễ.
([67]) chấp trung 執中: Giữ trung dung. – thủ nhứt 守一: Giữ tâm chuyên nhứt; giữ cho thần hồn không tán loạn;
giữ cho tinh khí thần hợp làm một.
([70]) thung dung, thong dong 從容 (calm,
free and easy, relaxed): Bình thản, thoải mái, thong thả, thản nhiên.