Chủ Nhật, 20 tháng 11, 2022

HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG (26-7-1970)

 

LÀM NGƯỜI LÀ CHIẾM ĐƯỢC TIÊN

Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)

ngày 24-6 Canh Tuất (Chủ Nhật 26-7-1970)

Bản Thánh, HƯNG ĐẠO ĐẠI VƯƠNG, chào chư liệt vị Thiên ân cùng đạo tâm nam nữ. Thành kính tọa thiền hộ điển.

THI

Tiên thiên nhứt khí ([1]) thể ([2]) hỗn nhiên ([3])

Thanh tĩnh, vô vi, Đạo cực huyền ([4])

Phương tiện đa môn, quy nhứt lộ ([5])

Chí thành bất tức, chứng Kim Tiên.([6])

先天一氣體渾然 / 清靜無為道極玄

方便多門歸一路 / 至誠不息證金仙

Trước khi chưa dựng nên trời đất, Đạo là vô vi, hỗn nhiên trong bầu hư vô lặng lẽ,([7]) không một vật gì trộn lẫn, nên gọi là khí tiên thiên. Khi Đạo dựng nên càn khôn thế giới,([8]) gồm cả vạn hữu chúng sanh,([9]) âm dương phân định, ấy là hậu thiên khí chất.

Con người là tiểu thiên địa, cũng như một bầu vũ trụ, tuy nhỏ bé nhưng gồm đủ không khác chi trời đất. Mỗi người đều thọ nơi Thượng Đế một điểm linh quang, âm dương hun đúc ([10]) mà thành hình. Thần nương đó để phát huy năng lực, thi thiết ([11]) quyền pháp, tài thành ([12]) cho công cuộc tạo hóa([13]) được trọn nên, chung lộn trong thời gian và không gian đặng triển khai ([14]) tâm thức, tạo lấy sự nghiệp tôn vinh,([15]) đặt trách nhiệm của con người.

Quyền năng ấy Thượng Đế đã ban phú cho mọi loài. Loài nào cũng trải qua một cuộc hành trình vô định. Khi làm xong phận sự của mình, lúc đó trở lại hội hiệp cùng Trời, gọi là thành Tiên tác Phật.

Cõi đời là bể khổ trầm luân,([16]) nhưng đó cũng là trường học rèn luyện con người để thâu hoạch công trình tự người làm nên. Mà đời cũng là bãi chiến trường khốc liệt; con người dấn thân vào đấy, tự mình phải chiến thắng để tạo cho mình một địa vị anh hùng, rèn đúc gan óc rắn rỏi, sáng suốt để đủ sức vượt qua mọi chướng ngại hiểm nghèo.

Nhưng ngoài giai đoạn thành công đó còn phải tự chiến thắng bản thân, trông ra mọi vật như đám quyến thuộc ([17]) của mình. Chính đó là cái tâm cơ ([18]) giong ruổi bên ngoài. Dầu là sông núi, chúng sinh cũng do tâm mình mà xuất hiện,([19]) nên phải tạo cho được hạnh người bồ tát, lấy bát nhã tâm mà quán chiếu ([20]) mọi loài. Nếu không chủ ([21]) được tâm thì tâm buông lung, phóng túng, kẹt mắc khắp muôn cảnh trần duyên;([22]) rồi nội thân mờ mịt, tình thức gây xáo trộn, khổ đau, ý chí lộn cuồng, không biết trần ai là ảo vọng.

Con người khi nào nhận được bản chất hậu thiên là đa tạp, mê mờ, rối loạn mới tìm đường trở lại nguồn đầu,([23]) quay về với Đạo, như lúc chưa có đất trời, một khối hỗn nhiên, lòng mình thông tuệ, bồ đề tự tại.([24])

Con người vì nhận lầm mà bỏ gốc theo ngọn, nên không thấy được bản thân mầu nhiệm của mình, quên hẳn nguồn gốc ở tâm, đâu hiểu chỗ sở dĩ([25]) phát sinh. Mắt thấy tai nghe, thân hình hoạt động, tất cả đều do tâm; nên mũi mới biết được mùi, lưỡi mới nếm được vị, miệng mới nói nên lời, ý mới nghĩ được việc nầy việc nọ.

Tâm đã phát tiết ra nhiều thì sự hư hụt bên trong càng ngày càng kiệt cạn. Thông qua các cửa,([26]) vướng víu đắm mê ngoại cảnh mà con người đành chịu hèn mạt, khổ đau.

BÀI

Trước vũ trụ, đất trời chưa có

Như thế nào, đâu rõ âm hao ([27])

Mông mênh, thông cực,([28]) diệu cao ([29])

Tối linh vô thượng,([30]) dám sao nghĩ bàn.

Thánh truyền sở,([31]) hỗn mang Vô Cực ([32])

Ngôi tiên thiên, Thái Nhứt ([33]) bổn sơ ([34])

Uyên uyên,([35]) thấp thoáng, mập mờ ([36])

Hỗn nhiên, thanh tịnh, thần cơ nhiệm mầu.

Thần vô phương ([37]) nhưng đâu cũng có

Cơ diệu vi ([38]) lấp ló chưa trình ([39])

Như như,([40]) cương kiện, trọn lành

Hốt nhiên ([41]) Tạo Hóa phân thành hai nghi.([42])

Khối âm dương, Thần ky ([43]) xuất hoạt

Đạo trung hòa bàng bạc hóa sanh

Kiền khôn thế giới định thành

Ngày đêm, thời tiết vận hành biến thông.

Cơ động tịnh, sắc không, ẩn hiện

Máy âm dương luân chuyển, tuần hoàn

Thần kỳ, diệu diệu, mang mang ([44])

Con thoi nhựt nguyệt dọc ngang kết liền.

Tự nhiên mãi, đương nhiên hẳn thế

Xảo diệu ([45]) mà thực tế, giản đơn

Trông vào thấy quả biết nhơn

Bủa ra nhóm lại, chánh chơn nhiệm mầu.

Nhứt bản tán vạn thù,([46]) lưu lãng ([47])

Vạn thù quy nhứt bản,([48]) hoàn nguyên ([49])

Ngược dòng nhập Thánh vào Tiên

Thuận theo dục lạc, não phiền, tử sanh.

Vay phải trả, loanh quanh sáu nẻo ([50])

Ý sanh tình, lẽo đẽo bên thân

Sáu căn duyên với sáu trần

Lông mang sừng đội,([51]) tinh thần tiêu tan.

Người đứng giữa nấc thang giao biến ([52])

Được làm người là chiếm được tiên ([53])

E người tâm chí đảo điên

Tự do, phóng túng, ý Thiên che mờ.

Tiếp nhận được thời cơ chẳng dễ

Chậm một giây là trễ một đời

Thời cơ tuy đã đến nơi

Lòng còn đen bạc, luật Trời khó dung.

Phải là Thánh mới cùng Tiên Thánh

Có chánh tâm mới chánh được người

Đọt xanh nhờ gốc rễ tươi

Đời hay nhờ có con người sáng khôn.

Cậy khôn sáng, tự tôn tự đại

Thì bị đời đào thải, bất dung ([54])

Đặng dân, đặng ở thời trung

Đặng lòng trời đất hầu ([55]) tùng Thiên cơ.

Người quân tử không mơ ngoại cảnh

Lo trau dồi tâm tánh nội thân

Đến khi xuất hóa nhập thần

Ấy là thành kỷ, thành nhân vẹn toàn.([56])

Muốn hạ thủ ([57]) lần sang cõi Thánh

Lo lập nền đức hạnh thanh cao

Ái ân, danh lợi ngăn rào

Nhảy ra cửa có, men vào cửa không.

Đặng mở một đường thông đến Đạo

Lòng lâng lâng hy hạo thái huyền ([58])

Thấy mình chứng nhập tự nhiên

Không còn hệ lụy trần duyên như ngày.([59])

Trước kia khác mà nay đã khác

Xưa vong thân ([60]) nay đạt lại thân

Trước kia tâm thức duyên trần

Phóng theo ngoại cảnh, trong thân nghèo nàn.

Lòng thiếu thốn, khô khan, thèm muốn

Mới theo tâm, yêu chuộng giựt giành

Không nề gian khổ, tử sanh

Miễn sao cướp đoạt về mình là vui.

Vì mất tâm, lòng nuôi ích kỷ

Được tâm rồi, ý chí rảnh rang

Tâm ta như mạch suối tràn

Tình thương, sự sống chứa chan dồi dào.

Xưa khốn khổ, khát khao vật lạ

Nay dư giàu, có cả nơi tâm

Tâm đi, nã tróc,([61]) kiếm tầm ([62])

Tâm về, ấm áp thì Thần hân hoan.

Cây bật gốc, lá tàn mục nát

Người mất tâm, lang bạt khổ hình

Biết mau khử ám hồi minh ([63])

Cầu Thầy hỏi bạn phương trình nội tâm.([64])

Giới định huệ nằm lòng tha thiết

Tham sân si tận diệt căn đề ([65])

Thức căn cột chặt, thâu về

Không còn rối loạn, hôn mê, biếng lười.

Khi được thấy trong người yên ổn

Đó là phương lập bổn ([66]) xây nền

Trong ngoài muôn sự đều quên

Chấp trung thủ nhứt ([67]) cho bền công phu.

Bước sơ cơ, kiếp tu khổ hạnh

Nào nội tâm, ngoại cảnh rầy rà ([68])

Chiến trường ngay ở lòng ta

Thất tình, lục dục kéo ra tranh hùng.

Tâm cứ mặc,([69]) thung dung,([70]) vô sự

Mãi như như, không cự không hàng ([71])

Lâu ngày tự chúng rã tan

Thập tam ma chúng ([72]) quy hàng tự nhiên.([73])

Bản Thánh chào. Thăng.



([1]) tiên thiên nhứt khí 先天一氣: Một khí tiên thiên. Theo Tiên Học Từ Điển 仙學辭典 của Đới Nguyên Trường 戴源長, tiên thiên nhứt khí cũng là tiên thiên chơn khí 先天. Khí này có từ hư không, lúc hồng hoang 鴻荒 (hỗn độn 混沌: chaos), khi chưa phân lập trời đất, còn trạng thái hỗn nhiên 混然.

([2]) thể (substance, being): Bản thể 本體, cái tự nó tồn tại, đối lập với các hiện tượng 現象 (phenomena).

([3]) hỗn nhiên 混然: 1/ Hỗn loạn, loạn tạp 亂雜, 混亂 (confused, chaotic, disordered). 2/ Hỗn nhiên nhất thể 渾然一體 (blended into one another, blended together well: trộn lộn vào nhau), không thấy dấu vết (bất kiến ngân tích 不見痕跡: leaving no trace). 3/ Mơ hồ, không biết gì (hồ đồ 糊塗: confused, muddled; vô sở tri 無所知). 4/ Chất phác 質朴 (plain and simple), thuần chân 純真 (pure and unaffected). 5/ Hình dạng không phân biệt được (vô phân biệt đích dạng tử 無分別的樣子: indistinctive appearance). 6/ Hình dạng mơ hồ, giản dị, không biết gì (hỗn phác vô sở tri đích dạng tử 渾朴無所知的樣子).

([4]) Câu này ý nói: Đạo thì thanh tĩnh, vô vi, vô cùng sâu xa, ảo diệu.

([5]) Câu này ý nói: Phương pháp (hay pháp môn) tuy đa dạng nhưng đều chung lối dẫn về Đạo. Câu này tương tự như Đồng quy nhi thù đồ 同歸而殊途: Đường tuy khác nẻo nhưng cùng về một chỗ (different ways lead to the same place). Hệ Từ Hạ 系辞下 trong Kinh Dịch xác định: Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ. 天下同歸而 殊途. (They all come to the same target, though by different paths: Đường đi muôn lối, một chỗ cùng về.)

([6]) Câu này ý nói: Trọn lòng thành thật (chí thành 至誠: completely sincere) mà tu hành không gián đoạn (bất tức 不息: ceaselessly, continually, without a break) thì sẽ đắc quả Kim Tiên.

([7]) Đạo Đức Kinh, Chương 25: Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sanh. 有物混成, 先天地生. (Có vật hỗn độn mà vẹn toàn, sanh trước trời đất. There was something chaotic and complete, coming into existence before heaven and earth.)

([8]) càn khôn thế giới 乾坤世界 (heaven and earth, the universe): Trời đất, vũ trụ.

([9]) vạn hữu chúng sanh 萬有眾生 (all living beings): Vạn vật 萬物 muôn loài.

([10]) hun đúc (huân đào 熏陶: being tempered): Un đúc, trui rèn, tôi luyện, hình thành tính cách sau thời gian rèn luyện, thử thách lâu dài.

([11]) thi thiết 施設 (carrying out and arranging sth): Thi hành và sắp đặt.

([12]) tài thành 裁成 (accomplishing sth, fulfilling sth): Thành tựu 成就, hoàn thành 完成, hoàn tất 完畢, làm xong.

([13]) công cuộc tạo hóa (tạo hóa chi công 造化之工: the work of creation): Sự sáng thế 創世, việc dựng nên trời đất (sáng tạo thiên địa 創造天地).

([14]) triển khai 展開 (expanding sth, developing sth): Mở mang, mở rộng, phát triển.

([15]) tôn vinh 尊榮 (honour and glory): Vinh dự và vẻ vang.

([16]) trầm luân 沉淪 (sinking): Chìm đắm. Trầmluân đồng nghĩa.

([17]) quyến thuộc 眷屬 (family members and relatives): Người trong gia đình và thân thích (thân nhân 親人, gia thuộc 家屬). trông ra mọi vật như đám quyến thuộc của mình: Điều này dựa trên lý lẽ rằng mọi vật và mình đều là những điểm linh quang (tiểu linh quang 靈光: micro sacred lights) được chiết ra từ Thượng Đế (Đại Linh Quang 靈光: the Macro Sacred Light).

([18]) tâm cơ 心機 (thoughts): Tâm tư 心思, ý nghĩ.

([19]) Nhà Phật nói: Vạn pháp duy tâm tạo. 萬法唯心造. (All dharmas are made from the mind alone. – Tất cả các pháp đều do tâm tạo nên.) Sách Liệt Tử chép: Có người mất búa, đem bụng ngờ con nhà hàng xóm; bởi vậy thấy mọi cử chỉ, vẻ mặt của nó đều gian xảo. Sau khi tìm thấy búa, lại thấy mọi cử chỉ, vẻ mặt của nó không có chút gì giống như kẻ trộm cắp.

([20]) quán chiếu 觀照 (reflecting on sth): Suy xét sâu xa và kỹ càng.

([21]) chủ (mastering sth, controlling sth): Làm chủ, kiểm soát.

([22]) trần duyên 塵緣: Tức là lục trần 六塵 (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp: sight, sound, smell, taste, touch, and idea). Vì tâm “duyên theo” (affected by) sáu trần mà bị ô nhiễm, không thanh tịnh, nên gọi là lục trần là trần duyên.

([23]) nguồn đầu (bản nguyên 本源: origin, source, starting point): Nguồn cội, nguồn gốc ban đầu, khởi điểm.

([24]) tự tại 自在 (free, unrestrained): Tự do, không bị ràng buộc (vì không còn bị phiền não, không còn bị tình cảm phàm tục như lục dục thất tình sai khiến).

([25]) sở dĩ 所以 (reason): Nguyên nhân, lý do, duyên cớ.

([26]) các cửa: Có sáu cửa (lục căn 六根: the six senses) là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và ý (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ: eyes, ears, nose, tongue, body, mind).

([27]) âm hao 音耗 (news, information): Tin tức, thông tin.

([28]) thông cực: Cực thông 極通: Cực kỳ thông suốt (đảo ngữ cho hợp luật bằng trắc trong câu thơ).

([29]) diệu cao: Cao diệu 高妙, cao siêu và huyền diệu (đảo ngữ cho hợp luật bằng trắc trong câu thơ).

([30]) vô thượng 無上 (supreme): Cao tột, không còn gì cao hơn.

([31]) Thánh truyền sở: Thánh sở truyền 聖所傳 (What has been taught by Holy Ones is that): Điều Thánh Nhân truyền dạy. (Theo luật thơ song thất lục bát, chữ thứ ba của câu thất thứ nhất là thanh trắc: do đó, phải đảo ngữ thành “truyền sở”.) "Sở" kết hợp với động từ thành danh từ, có nghĩa là "cái mà, điều mà". Chẳng hạn: "sở hữu" 所有 (cái mình có); "sở bất dục" 所不欲 (điều không muốn), "sở năng" 所能 (khả năng của mình), v.v...

([32]) hỗn mang Vô Cực: Ngôi Vô Cực trong thời hỗn mang (chaos), trời đất chưa phân lập (tiên thiên).

([33]) Thái Nhứt 太一: Cũng gọi Thái Ất 太乙. Tức là Đạo , là bản nguyên 本原 (căn nguyên 根源) hay bản thể 本體 của vạn vật trong vũ trụ; từ nghĩa này, Thái Nhứt cũng là Thượng Đế.

([34]) bổn sơ 本初 (primordial): Sơ thủy 初始, nguyên thủy 原始, trước tiên hết thảy mọi thứ.

([35]) uyên uyên 淵淵 (deep and still): Sâu xa và tĩnh lặng.

([36]) Đạo Đức Kinh, Chương 21: Đạo chi vi vật, duy hoảng duy hốt. Hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hề kỳ trung hữu vật. 道之為, 惟恍惟惚. 惚兮恍兮, 其中有象. 恍兮惚兮, 其 中有物. (Đạo là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng. Thấp thoáng, mập mờ mà bên trong có hình dạng. Mập mờ, thấp thoáng mà bên trong có vật. Dao is something only vague and obscure. How obscure! How vague! In it there is form. How vague! How obscure! In it are things.)

([37]) Hệ Từ Thượng, chương IV: Thần vô phương. . . 神無方. . . (Thần [linh diệu nên] không bị giới hạn hay bó buộc vào một chỗ nào.) Thần vô phương nhưng đâu cũng có: Thần không cố định ở một chỗ nào; tuy nhiên, bất kỳ chỗ nào cũng có Thần.

([38]) diệu vi (vi diệu 微妙): Thâm áo huyền diệu 深奧玄妙 (obscure and mysterious). Chữ thứ ba của câu thất thứ hai là thanh bằng nên phải đảo ngữ thành “diệu vi”.

([39]) trình (trình hiện 呈現: appearing, manifesting itself, coming into sight; becoming visible): Hiện ra, lộ ra, bày ra cho thấy.

([40]) như như 如如: Bất nhiễm (uncontaminated), bất biến (invariable). Nhà Phật gọi “như như trí” 如如智 là cái trí xưa nay thanh tịnh, không bị vô minh che lấp, không bị phiền não làm cho ô nhiễm; gọi “như như cảnh” 如如境 là cái cảnh thường trụ, không dời đổi, không sinh không diệt.

([41]) hốt nhiên 忽然 (suddenly): Thình lình, bỗng dưng.

([42]) hai nghi (lưỡng nghi 兩儀: yin and yang, earth and heaven): Âm và dương, đất và trời.

([43]) thần ky: Thần cơ.

([44]) mang mang 芒芒: Bao la, mênh mông.

([45]) xảo diệu 巧妙 (clever, ingenious): Khéo léo.

([46]) nhứt bản tán vạn thù 一本散萬殊 (one origin dispersing into all differences): Một gốc phân tán ra muôn vàn khác biệt.

([47]) lưu lãng 流浪 (dispersing everywhere): Phân tán khắp nơi.

([48]) vạn thù quy nhứt bản 一本 (all differences returning to one origin): Muôn vàn khác biệt đều trở về một gốc.

([49]) hoàn nguyên 還原 (returning to the origin): Trở về nguồn cội.

([50]) sáu nẻo (lục đạo 六道): Sáu đường luân hồi của chúng sanh, tùy theo những việc lành việc ác đã tạo gây trong kiếp sống. (Six kinds of rebirth in samsara that are undergone by sentient beings in accord with their good or evil actions carried out in their previous lifetime.) Lục đạo gồm có: 1/ Thiên (devas: celestial beings, gods, hiểu theo Phật Giáo; không phải là Thượng Đế theo Nho, Lão, Cao Đài). 2/ A tu la 修羅 (asura). 3/ Nhơn (người: human). 4/ Địa ngục 地獄 (hell). 5/ Ngạ quỷ 餓鬼 (quỷ đói: hungry ghost). 6/ Súc sanh 畜生 (thú vật: animal). Ba đường trên (1, 2, 3) gọi là ba đường lành (tam thiện đạo 三善道). Ba đường dưới (4, 5, 6) gọi là ba đường dữ (tam ác đạo 三惡道).

([51]) lông mang sừng đội (reborn as an animal): Khi tái sanh phải làm thú vật.

([52]) người đứng giữa nấc thang giao biến: Con người đứng giữa hai nấc thang tiến hóa hay thoái hóa, vì có thể tu hành để tiến hóa lên làm Thần, Thánh, Tiên, Phật nhưng cũng có thể bị đọa xuống làm thú vật hay quỷ đói (súc sanh, ngạ quỷ) vì không biết tu hành, phạm quá nhiều tội lỗi trong kiếp sống.

([53]) tiên (the first): Vị trí đứng đầu trong các loài. Mượn các chữ in đậm tạm đặt nhan đề cho bài thánh giáo này.

([54]) bất dung 不容 (cannot tolerate sb): Không tha thứ.

([55]) hầu (so as to, in order to): Ngõ hầu mà, để mà, nhằm để.

([56]) thành kỷ 成己 (completing oneself): Thành tựu cho mình (bản thân). ─ thành nhân 成仁 (completing one’s benevolence): Thành tựu đức nhân của mình. Trung Dung 25: Thành kỷ, nhân dã. 成己, 仁也. Thành tựu cho mình là đức nhân. (Completion of oneself is his benevolence.)

([57]) hạ thủ 下手 (starting work on sth, putting one’s hand to sth): Bắt tay vào việc, ra tay làm việc, khởi sự làm gì.

([58]) hy hạo thái huyền 希浩太玄 (great mystery of silence and vastness): Tạm hiểu là Đạo bao la và lặng lẽ.

([59]) như ngày (as former days): Như ngày trước, như ngày xưa cũ.

([60]) vong thân 亡身 (losing oneself): Đánh mất chính con người của mình vì không hiểu đạo, không biết rằng chính mình là một Tiên Phật sẽ thành, do đó chỉ sống theo sự sai khiến của lục dục thất tình.

([61]) nã tróc 拿捉 (capturing sth, catching sth, seizing sth): Tóm lấy, bắt giữ. tróc đồng nghĩa.

([62]) Mạnh Tử, Cáo Tử Thượng (11): Nhân hữu kê khuyển phóng, tắc tri cầu chi; hữu phóng tâm, nhi bất tri cầu. 人有雞犬放, 則知求之; 有放心, 而不知求. (When men's fowls and dogs are lost, they know to seek for them; when losing their mind, they do not know to seek for it): Con gà, con chó chạy lạc, ắt biết kiếm tìm; cái tâm thất lạc, lại không biết tìm kiếm.

([63]) khử ám hồi minh 去暗回明 (removing ignorance and restoring wisdom): Trừ bỏ sự u tối, lấy lại sự sáng suốt.

([64]) phương trình 方程 (equation): Đẳng thức (có dấu =) chứa một hay nhiều ẩn số (vị tri số 未知數: con số chưa biết: unknown, unknown quantity). Chẳng hạn, ax+by+c=0 là một phương trình chứa hai ẩn số (an equation of two unknowns) là x và y. phương trình nội tâm 內心的方程 (the spiritual equation): Về lý thì con người có tính Trời, có Phật tánh, có Cao Đài nội tại, v.v… Nhưng tất cả các giá trị (values) thiêng liêng ấy đều là ẩn số. Tu hành là giải phương trình ở nội tâm mỗi người để tìm ra ẩn số đó và thực chứng lời Đức Cao Đài dạy: “Con là một thiêng liêng tại thế / Cùng với Thầy đồng thể linh quang.”

([65]) căn đề (căn để 根柢: root, foundation): Gốc rễ, nền tảng. tận diệt căn đề (destroying sth at its root): Diệt sạch tận gốc rễ.

([66]) lập bổn 立本 (establishing the foundation): Xây đắp nền móng.

([67]) chấp trung 執中: Giữ trung dung. thủ nhứt 守一: Giữ tâm chuyên nhứt; giữ cho thần hồn không tán loạn; giữ cho tinh khí thần hợp làm một.

([68]) rầy rà (bothering sb): Quấy rầy, làm phiền, quấy nhiễu.

([69]) mặc (silent): Lặng lẽ. tâm cứ mặc: Tâm không loạn động.

([70]) thung dung, thong dong 從容 (calm, free and easy, relaxed): Bình thản, thoải mái, thong thả, thản nhiên.

([71]) cự (resisting): Chống cự. hàng (surrendering): Đầu hàng, quy hàng, chịu khuất phục.

([72]) thập tam ma chúng 十三魔眾 (the gang of thirteen demons): Bè lũ mười ba con ma, gồm thất tình (bảy tình) và lục dục (sáu ham muốn).

([73]) quy hàng tự nhiên (tự nhiên quy hàng 自然歸降: naturally surrendering): Tự nhiên đầu hàng, đương nhiên chịu thua.


HUỆ KHẢI chú thích LÊ ANH MINH hiệu đính