XÂY DỰNG ĐẠI ĐỒNG XÃ
Trung
Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng)
ngày
13-12 Kỷ Hợi (Thứ Hai 11-01-1960)
THI
HƯNG vượng lần ba giải khổ
đời
ĐẠO mầu gieo rải tận nơi nơi
TỔNG quy trăm họ ([1]) chung về một
LÝ chánh đường chơn dẫn dắt người.
Bản Thánh chào chư liệt vị Thiên ân.([2]) Chào chư đạo tâm nam nữ.
BÀI
Muốn cho trăm họ thân hòa
Xa gần đều được chung nhà ấm no
Ai giác ngộ toan lo xây dựng
Ai anh minh ([3]) chận
đứng tệ đời ([4])
Ai vâng chịu lấy
mạng Trời
Tiền phong ([5]) xốc gánh, dẫn người lại quê.([6])
Đời là
chỗ sông mê bể khổ
Người quẩn quanh
trong chỗ tối tăm
Làm sao khỏi phải mê
lầm
Biết lầm sớm tỉnh mà
tầm lý chơn.
Kỳ tận
độ ([7]) được ơn giáo hóa
Buổi hạ nguơn đại xá
([8]) cho đời
Bốn phương chung
hưởng ơn Trời
Sống chung hạnh
phúc, chết thời đăng Tiên.([9])
Muốn ai
cũng về miền cực lạc
Ai cũng thành Bồ Tát
gắng tu
Giải nàn ([10]) nhờ sức công phu
Lập thân hành đạo,([11]) bốn tù ([12]) đừng vương.
Công phu
([13]) tạo con đường giải thoát
Giải thoát rồi
thuyền bát nhẹ khơi ([14])
Nhẹ không, lòng
chẳng nhuốm đời
Đời người thanh
sạch, thảnh thơi thanh nhàn.
Muốn đời
được vinh quang hạnh phúc
Muốn thoát ngoài bể
dục ([15]) ao sầu
Thì là tỉnh ngộ mau
mau
Lập công bồi đức,
khổ đau đâu còn.
Trong
khu Thánh Vệ ([16])
đều là người háo đức lạc thiện,([17])
ngày tháng vui với đạo mầu, sẵn sàng đem thân phục vụ cho chơn lý, cho chính
nghĩa. Lòng người trong khu an lạc địa không cầu danh cạnh lợi,([18])
san đều mức sống, hòa nhịp cùng thiên nhiên, chung một khối thương yêu, lấy sự
tu thân làm gốc.
Tu thân
để tề gia,([19])
cầu lấy đầm ấm, thảo thuận làm hạnh phúc cho gia đình. Cha mẹ là mẫu mực của
con cháu. Anh chị là phép tắc của đàn em. Chồng đính chính,([20])
vợ thuận hòa. Dưới biết kỉnh trên, trên để lòng lo cho kẻ dưới. Sống một cuộc
đời tươi đẹp, không một chút sóng gió gợn lên. Gia đình được hòa thuận ấm no.
Trong nhà, ngoài vườn sạch sẽ, ngăn nắp. Nghèo cũng thanh cao, giàu không bẩn
thỉu.
Tề được
nhà mình, còn phải góp phần xây dựng nhà bạn, nhà trong láng giềng, lân lý ([21])
gần xa. Láng giềng, lân hữu([22])
được đồng hóa ([23])
theo con đường tu thân tề gia, thì việc trị quốc, bình thiên hạ cũng chẳng khó
gì. Nếu thân chưa tu, nhà chưa tề thì có nước cũng không giữ được, có thiên hạ
trong tay cũng khó thể bình.
Vì vậy
Đại Đồng Xã ([24])
cần làm sao, bất cứ nữ hay nam, già nua hay trẻ nhỏ, đều uốn nắn con người theo
một khuôn phép đạo đức, cách ăn thói ở đều được tốt lành. Lòng mỗi người đều có
sẵn một đức tin, một lòng hồi hướng về Thượng Đế. Người người biết tuân nghe
quyền pháp, hành động không vượt ngoài khuôn viên đạo đức làm người. Đói cho
sạch, rách cho thơm. Tư cách ấy khả dĩ ([25])
tượng trưng cho một người dân trong thánh địa.
Trong xã
có chia nhiều đoàn đội để tập thể sống bằng học hỏi, bằng sinh hoạt, bằng cộng
sự. Thực hành xây dựng nền tảng. Có trường trại giảng dạy. Có đất đai trồng
trọt, làm các vườn hoa thảo, yên dưỡng cho tráng lão, cho ấu nhi, cô nhi. Có
nhà tu, dưỡng lão viên, giải thoát viên, an lạc viên, thanh tịnh viên, bảo tích
viên,([26])
v.v... Trong lúc đó còn tổ chức đời sống công thương kỹ nghệ tập đoàn, hoặc văn
nghệ thể thao. Nếu đầy đủ thì còn nhiều, nhiều lắm trong các công việc xây dựng Đại Đồng Xã.([27])
Bây giờ
đây đất đai chật hẹp, người ở cách bức xa xôi, chung trộn trong nhiều dòng tư
tưởng, nhiều hạng nhơn dân. Muốn đi đến một xã thành hình phải nhiều công phu,([28])
phải cả một sự cố gắng và phần đông giác ngộ. Mà ở trong cảnh địa như hoàn cảnh
thành đạo ([29])
nơi nầy, một đô thành náo nhiệt, người người đương cạnh tranh miếng mồi danh
lợi vật chất. Ai ai cũng toan sống để ăn để mặc, để chơi cho mê ly đắm đuối,
nghiêng ngả đủ đầy. Sống không nghĩ ngày mai. Sống không tương liên, không dính
líu gì với vận mệnh chung về nhà hay về đời.
Toàn bộ
đạo hữu ta được nứt nở,([30])
hiện hình một tổ chức, có đoàn thể bảo trợ, có quyền pháp xây dựng, có tổ chức
điều khiển an bài,([31])
có Thiên ân giáo hóa dẫn đạo, có toàn đạo cộng sự chung, có thiện gia ([32])
lành mạnh gương mẫu, có hương tộc ([33])
đóng góp sự sống tình thương giữa nhau. Ai cũng tượng trưng một đời đạo đức,
một người đạo đức. Đời sống sanh đau già chết là bốn cảnh khổ, mà khổ ấy toàn
đạo đều xúm nhau san sớt lẫn nhau.
Việc
cưới gả, việc quy liễu là tình đồng đạo. Ai cũng chú ý dựng nên một đời có vợ
chồng, rồi có con có cháu. Vợ chồng là hiệp nhau mà làm xong cái sứ mạng ([34])
xây đắp gia đình, đúc nắn một lớp người tương lai. Dòng giống đó được truyền
thụ một tinh thần minh lãng,([35])
một dòng máu ấm áp nhiệt thành, một khuôn phép truyền thống nghìn đời cho con.
Vợ chồng
nào phải gặp nhau để thỏa mãn tình dục, mà cả một ái tình thiêng liêng bất
diệt. Nên trước khi gả con lấy chồng, hay nói vợ ([36]) cho con là phải được một sự dẫn dắt, một sự
uốn nắn rèn tập ở khuôn viên gia đình, ở tinh thần của mẹ cha tiêm xạ vào lòng
con, ở sự giáo hóa nhà trường, ở các giảng đường dạy đạo.
Vì muốn
có một nòi giống tốt đẹp tương lai, có những gia đình kiểu mẫu của xã hội là
phải bắt đầu xây dựng, xây dựng đứa con còn trong bụng mẹ. Người mẹ lúc nào
cũng tươi tỉnh sáng suốt, đi đứng ngồi nằm được phân minh đính chính. Không
nghe điều dữ, không nói chuyện nhảm, không nghĩ điều quấy, không thấy tuồng
khiêu khích vô nghì.([37])
Lòng mỗi lúc đều nghĩ đến đứa con sau này, đứa con của quyền năng. Phải hết
lòng tu dưỡng trong hồi thai nghén. Khi sinh ra, lúc lớn lên, cha mẹ phải bỏ
nhiều công phu, gởi gắm bao nhiêu danh phận sự nghiệp cho con sau này. Đứa trẻ
lớn lên, trai cho học gì, gái cho học gì, [là] cả một chương trình xây dựng Đại
Đồng Xã.
Việc cải
tạo nhà cửa cũng phải công trình ([38])
lắm lắm. Dầu sang giàu hay nghèo khổ, điều ấy không buộc làm y nhau, mà buộc
mọi người phải có một ý thức dựng lên gia đình.
Về phần
thiêng liêng, đối với tổ phụ ([39])
phải làm sao hằng ngày để hết bổn phận của con cháu. Con cháu thờ phụng tiên
linh ([40])
không phải chỉ biết ngày xuân thu kỵ lạp,([41])
hương lửa giữ gìn, mà còn có bổn phận làm cho giống cây gia tộc nảy nở hoa đẹp
trái lành, làm cho dòng máu gia tộc được nồng hậu anh minh.
Nếu ông
bà ngày xưa có những gương tốt nên soi, công nghiệp ([42])
hậu, ta nên mở mang giữ gìn; bằng [ông bà] chưa danh gì với núi sông, [chưa] ơn
gì với con cháu thì cũng [là] một hạt giống đã thành cây, ta có bổn phận bón
xới, trông nom cho nhánh được nở, cành được tươi, lấy sức làm cho cây gia tộc
được đứng ngang hàng cùng các vườn bách thảo khác, làm cho con cháu nhận định
được một sứ mạng của mình, thực hiện xong chương trình mà ông cha làm còn lỡ
dở. Muốn vậy, đời mình đã nửa đời, trăm năm nào chắc, [chỉ] còn mong mỏi bầy
con lũ cháu sau nầy đi theo con đường của tổ tiên, làm cho tổ tiên đẹp lòng,
muôn người trông cậy.
Về tinh
thần, còn tế nhị ở chỗ dính líu làm một giữa nòi giống với Thượng Đế quyền
năng.
Về hình
thức, ý niệm tiền của, nhà cửa, ruộng vườn, ăn mặc và tiêu pha, [là] cả một vấn
đề quan trọng, nên thông hiểu được phần đó. Nó tác hại thế nào cho tinh thần, ý
chí toàn bộ hay nó trợ trưởng,([43])
thúc đẩy cho tinh thần được nhiều sự ích lợi. Có để làm gì? Có phải sử dụng làm
sao? Lòng mình phải nghĩ đến cái thừa, biết đến cái thiếu, hầu ([44])
xây dựng một lập trường lý tưởng trong gia đình.
Về trật
tự, vệ sinh, giao tế, hành động, lại cũng [là] một vấn đề cần được học. Nên xây
dựng Đại Đồng Xã phải đề cập đến bao nhiêu việc, mà việc trước nhất là làm
người có tu thân tề gia.
(. . .)
Thôi,
Bản Thánh để lời khuyên và ban ơn lành cho toàn đạo.
([2]) Thiên ân (the recipient of
Heaven’s blessing): Người thọ nhận ơn Trời. chư liệt vị Thiên ân: Từ xưng hô trang trọng (ngôi thứ hai) để gọi
những vị đang nhận trách nhiệm hoằng giáo.
([4]) tệ 弊 (harm,
detriment): Điều xấu, có hại. tệ đời (harm or detriment in the world): Những điều
xấu, có hại trong cuộc đời.
([11]) lập thân 立身 (establishing oneself in life): Làm người
đàng hoàng ở đời. Lập thân là tiến
trình thực hiện; thân lập 身立 (thân được nên) là kết quả của lập thân. hành đạo (practising Caodai teaching): Thực hành giáo lý Cao Đài.
([12]) bốn tù (the
four jail walls, i.e., alcohol, sex, money, and drugs): Nói tắt thành ngữ bốn vách trần tù. Đổ và tường đều là vách tường. Thế gian có bốn thứ giam hãm con người trong ham muốn và nghiện ngập, khiến con
người mất tự do, giống như bị nhốt trong bốn vách nhà tù. Bốn tù (tứ đổ 四堵; tứ đổ
tường 四堵牆) là tửu, sắc, tài, khí 酒色財氣 (rượu, sắc dục, tiền bạc, và ma túy).
([13]) công phu 功夫 (practising inner self-cultivation;
practising meditation): Ngồi thiền, tu tịnh, tịnh luyện.
([14]) thuyền bát nhẹ khơi (the prajna boat smoothly sailing to the open
sea): Thuyền bát nhã nhẹ nhàng ra khơi.
([15]) bể dục (dục hải 欲海: sea of desires): Ham muốn nhiều như biển cả; ham muốn ấy làm người ta
đắm chìm cũng như biển cả.
([16]) Thánh Vệ 聖衛 (the Holy Guard): Trong lúc chiến tranh
ác liệt vào giữa thế kỷ 20, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài chọn các gia đình đạo
hữu sống tại Đà Nẵng lập thành một đoàn thể gọi là Thánh Vệ để bảo vệ Trung Hưng
Bửu Tòa tại Đà Nẵng.
([17]) háo (hiếu)
đức lạc thiện 好德樂善
(being fond of virtue and happy with
goodness): Ưa thích đạo đức và vui với việc lành.
([18]) cầu danh
cạnh lợi (seeking fame and striving for wealth): Cầu cạnh danh lợi (bằng cách
xin xỏ, quỵ lụy người quyền thế).
([24]) Đại Đồng
Xã 大同社 (Society of Great Harmony): Trong lúc chiến tranh ác liệt vào giữa thế kỷ
20, bổn đạo chạy loạn đổ xô về Đà Nẵng rất đông. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài
tập hợp tín hữu tản cư lại và tổ chức thành Đại Đồng Xã để chăm sóc đời sống và
hướng dẫn tâm linh. Khi chiến tranh lắng dịu, tín hữu trở về quê cũ, Đại Đồng
Xã vì thế không còn nữa. Vị trí của Đại Đồng Xã sau này trở thành thánh thất
Trung Đồng, tại số 170 đường Trường Chinh (quốc lộ 1), quận Cẩm Lệ, thành phố
Đà Nẵng.
([26]) viên 園 (garden, park):
Vườn trồng trọt, chỗ để ngoạn cảnh hay để nghỉ ngơi. bảo tích viên: Tạm đoán nghĩa là công viên bảo tồn di tích lịch sử
nhà đạo 保跡園 (Caodai relic park).
([28]) công phu 功夫 (skill and long-time effort): Sự khéo léo
và công sức khó nhọc trong thời gian dài. Cùng nghĩa công
trình.
([29]) thành đạo: Đơn vị hành chánh của đạo bao gồm các tín đồ
trong cùng thành phố. (Ở xã gọi là xã đạo,
ở quận là quận đạo, ở tỉnh là tỉnh đạo.)
([32]) thiện
gia 善家 (good
family): Tín đồ còn được Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài gọi là thiện dân 善民 (good citizen).
Gia đình của thiện dân gọi là thiện gia.
([38]) công
trình 功程 (skill and long-time effort): Sự khéo léo
và công sức khó nhọc trong thời gian dài.
Cùng nghĩa công phu.
([39]) tổ phụ 祖父 (grandparents and parents): Tổ phụ là ông nội. Ở đây nên hiểu là gồm
cả ông bà nội ngoại và cha mẹ.